Chuyên mục
Kiến thức nông nghiệp NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Điện Biên: Hình thức “Lúa đơn giống và mở rộng cấy lúa bằng máy”

Theo Chi cục Bảo vệ Thực vật tỉnh Điện Biên, việc tích hợp tiến bộ kỹ thuật và cơ giới hóa trong quá trình sản xuất lúa đã mang lại những kết quả tích cực, như sự ổn định trong năng suất lúa, đảm bảo chất lượng sản phẩm và tăng cường lợi nhuận. Mô hình này đã chứng minh và thể hiện sự hiệu quả của chương trình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và cơ giới hóa trong sản xuất, hướng đến việc nâng cao giá trị sản xuất, tối ưu hóa hiệu suất kinh tế, giảm thiểu chi phí sản xuất, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế của các địa bàn và được nông dân chấp nhận. Đây là một mô hình linh hoạt và có khả năng mở rộng trong các chu kỳ sản xuất tiếp theo.

Mô hình nhân rộng lúa cấy bằng máy móc

Áp dụng kỹ thuật cấy bằng máy không chỉ mang lại nhiều lợi ích mà còn giải quyết một số thách thức quan trọng trong quá trình sản xuất lúa. Việc giảm lượng giống cần sử dụng, điều chỉnh mật độ chuẩn thoáng theo hàng và hạn chế tranh chấp dinh dưỡng và ánh sáng đã tạo ra môi trường thuận lợi cho quá trình chăm sóc cây lúa. Sử dụng dụng cụ làm cỏ sục bùn để tạo thông thoáng trong đất không chỉ giảm tình trạng nghẹt rễ mà còn giúp lúa đẻ nhánh tập trung, cứng cây, và tỷ lệ dảnh hữu hiệu từ 8 – 10 dảnh/khóm.
Tại các địa bàn vùng ngoài áp lực về lúa, mô hình này đã thể hiện sự giảm áp lực so với vùng lòng chảo thuộc huyện Điện Biên và thành phố. Nông dân được hỗ trợ để nắm bắt thực trạng của lúa và hiểu rõ tầm quan trọng của việc xử lý lúa trong quá trình sản xuất. Sự thay thế thuốc trừ cỏ bằng dụng cụ làm cỏ sục bùn đã mang lại hiệu quả tích cực. Áp dụng kỹ thuật cấy, việc kéo dài thời gian làm đất không chỉ giảm áp lực mùa vụ mà còn giảm tình trạng lúa ngộ độc đầu vụ. Ruộng giữ nước lâu hơn so với phương pháp gieo vãi, tạo điều kiện cho hạt cỏ dại và lúa mọc khó hơn. Cây lúa và cỏ dại nảy mầm muộn, dễ phân biệt, và tỷ lệ lúa lẫn thấp hơn 80 – 90% so với ruộng ngoài mô hình. Đây là những tiến bộ đáng kể trong quá trình sản xuất lúa, mà mô hình đã chứng minh được tính khả thi và hiệu quả.
Áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) ngay từ đầu vụ, bao gồm xử lý giống, làm đất, cấy mạ non, và cấy thưa, đã mang lại nhiều ưu điểm đáng chú ý. Các đối tượng dịch hại chính như tập đoàn rầy, sâu cuốn lá nhỏ, bệnh bạc lá, và bệnh khô vằn xuất hiện muộn hơn so với phương pháp gieo vãi, và mức độ gây hại của chúng thấp hơn. Nông dân, tuân thủ nguyên tắc “4 đúng” trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, đã giảm số lượng sinh vật gây hại phát sinh. Sự tuân thủ này không chỉ giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch hại mà còn duy trì cân bằng sinh học trong môi trường nông nghiệp. Đồng thời, số lần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật giảm từ 1,5 – 3 lần, giúp hạn chế ảnh hưởng của các chất hoá học đối với môi trường và giảm chi phí sản xuất.

lua-dien-bien

Mô hình lúa đơn giống

Mô hình cánh đồng 1 giống, áp dụng đồng loạt các biện pháp kỹ thuật từ giai đoạn đầu vụ, như cấy tập trung, bón phân, điều tiết nước, và phun thuốc bảo vệ thực vật, đã mang lại nhiều lợi ích đáng kể. Sự áp dụng máy cấy trên mô hình này đã giảm tỷ lệ lúa lẫn và cỏ dại 80 – 90% so với các phương pháp truyền thống. Lúa không chỉ sinh trưởng phát triển đồng đều mà còn có tỷ lệ dảnh hữu hiệu cao, và trổ bông tập trung trên cùng cánh đồng.
Nông dân đã được hướng dẫn về các biện pháp và lưu ý cần thiết trong quá trình thu hoạch và sơ chế, nhằm đảm bảo không lẫn tạp và đáp ứng đúng yêu cầu của đơn vị thu mua.
Việc áp dụng máy cấy trên mô hình 1 giống không chỉ kiểm soát tốt sinh vật gây hại mà còn làm cho chúng xuất hiện muộn hơn và gây hại ít hơn so với các phương pháp khác. Sự tập trung của sinh vật gây hại theo lứa đã giúp triển khai các biện pháp phòng trừ đồng loạt, nâng cao hiệu quả phòng trừ.
Ngoài ra, việc kiểm soát hiệu quả việc sử dụng thuốc trừ sâu từ giai đoạn đầu vụ và phun trừ khi đạt ngưỡng nhất định đã giảm thiểu ảnh hưởng của sâu bệnh đối với năng suất cuối vụ. Đặc biệt, đối với tập đoàn rầy, mật độ của chúng giai đoạn giữa vụ đã được kiểm soát cao hơn so với ruộng gieo vãi, mà không gặp hiện tượng cháy chòm và ổ rầy như trên ruộng sử dụng phương pháp truyền thống. Đây là một bước tiến quan trọng trong quản lý dịch hại và tăng cường hiệu suất trong sản xuất nông nghiệp.

Nguồn: Mard.gov.vn

 

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Năm 2023 – Gạo ST25 Việt Nam đạt giải nhất thế giới

Gạo ST25 của thương hiệu gạo Việt Nam (ông Cua) , đã đạt giải nhất tại Hội thi gạo ngon nhất thế giới được tổ chức lần thứ 15 tổ chức tại Philippines.

Gạo ST25, thương hiệu độc đáo của Việt Nam dưới bàn tay tài năng của ông Hồ Quang Cua, đã chinh phục tất cả vị khách mời tại Hội thi Gạo Ngon Nhất Thế Giới lần thứ 15, tổ chức tại Philippines. Trong thông báo ngày 5/12, ông Jeremy Zwinger, Giám đốc điều hành The Rice Trader, đã tuyên bố chính thức về chiến thắng quốc tế của giống gạo ST25, ghi dấu ấn không thể phủ nhận trong làng nông nghiệp và ẩm thực thế giới.

ST25, được phát triển bởi ông Hồ Quang Cua, nguyên Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Sóc Trăng, không chỉ là niềm tự hào của Việt Nam mà còn là biểu tượng của sự đổi mới và sáng tạo trong ngành nông nghiệp. Sự kết hợp tài năng và kiến thức chuyên sâu của ông Cua đã đưa ST25 đến đỉnh cao của thế giới gạo.

Giải nhì thuộc về Campuchia, đánh bại nhiều đối thủ mạnh mẽ khác trên đường đua quốc tế. Còn giải ba thuộc về Ấn Độ, một đất nước giàu truyền thống và lịch sử về nông nghiệp.

Cuộc thi năm nay đã thu hút sự quan tâm của hơn 10 quốc gia và 30 mẫu gạo, là một sân chơi quốc tế cho các nhà nông và doanh nghiệp chia sẻ và thiết lập tầm vóc của họ. Chỉ có ba giống gạo xuất sắc nhất mới có cơ hội nếm phải vị ngon độc đáo của ST25. Điều đặc biệt là các đầu bếp hàng đầu thế giới đã đánh giá và chọn lựa sản phẩm mà không biết về nguồn gốc của chúng.

Trước sự kiện này, ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Cục Trồng trọt thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đã thông tin về sự tham gia tích cực của Việt Nam trong cuộc thi. Ba doanh nghiệp hàng đầu của đất nước đã gửi gạo dự thi, chứng minh sức mạnh và đa dạng của ngành nông nghiệp Việt Nam.

Chắc chắn, chiến thắng của ST25 không chỉ là niềm tự hào quốc gia mà còn là cột mốc quan trọng, chứng minh rằng nông nghiệp Việt Nam không chỉ sản xuất đủ để đáp ứng nhu cầu nội địa mà còn có thể cạnh tranh và chiến thắng ở tầm cỡ quốc tế. Điều này mở ra cánh cửa mới cho ngành nông nghiệp Việt Nam trên bản đồ thế giới, đồng thời tăng cường uy tín và giá trị của thương hiệu “Gạo ông Cua” trong lòng người tiêu dùng toàn cầu.

Trong lần đoạt giải nhất tại Hội thi Gạo Ngon Nhất Thế Giới, Việt Nam không chỉ được vinh danh với giống gạo ST25 mà còn đặc biệt khi Ban tổ chức tôn vinh toàn bộ “hạt gạo Việt.” Đây là lần thứ hai Việt Nam đạt giải cao tại sự kiện này, lần đầu tiên là năm 2019. Sự thừa nhận đồng loạt cho sản phẩm gạo Việt đã đánh dấu bước tiến quan trọng, khẳng định đẳng cấp của ngành nông nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế.

 

anh-nhan-giai
Ông Hồ Quang Cua, một trong những đại diện có giống gạo đi dự thi- hình ảnh lên nhận giải tại Philippines. nguồn ảnh: từ trang báo

Sau chiến tích đoạt giải gạo ngon nhất thế giới năm 2019 với giống gạo ST25, ông Hồ Quang Cua, người đứng sau sự phát triển của giống gạo này, chia sẻ về quá trình nghiên cứu và cải tiến. Từ giống gạo 68-10, ông và đội ngũ nghiên cứu đã tiếp tục thanh lọc và vào năm 2021, giống gạo 72-6 đã được phát hiện.

Mặc dù không nổi bật về hình dạng, cây lúa 72-6 thấp và hơi xiên, nhưng lại ít đổ ngã và trổ sớm hơn 5 ngày so với giống 68-10. Hạt gạo của giống này cũng ngắn hơn khoảng 0,2mm và có tỷ lệ thu hồi gạo tốt hơn 0,5% so với giống 68-10. Quá trình phát triển và chọn lọc này đã góp phần quan trọng vào thành công lớn của ST25 trong cuộc thi quốc tế.

Cuộc thi Gạo Ngon Nhất Thế Giới, do The Rice Trader (Mỹ) tổ chức, là sự kiện quan trọng nhằm định hình xu hướng và hướng đi cho thị trường lúa gạo thế giới. Việt Nam đã lần đầu giành giải cao nhất năm 2019 và tiếp tục tạo nên cú sốc với giống gạo 72-6. Năm 2020, Việt Nam vẫn đứng ở vị trí thứ hai trong cuộc thi này.

Năm ngoái, Campuchia là người chiến thắng tại cuộc thi được tổ chức tại Phuket, Thái Lan, trong khi Việt Nam, Thái Lan và Lào đều có mặt trong top 4. Những thành công này không chỉ là niềm tự hào của người nông dân và nhà nghiên cứu Việt Nam mà còn là đỉnh cao của sự đổi mới và sáng tạo trong ngành nông nghiệp quốc gia.

Nguồn: vnexpress.net

Chuyên mục
Kiến thức nông nghiệp NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Lâm Đồng: Linh hoạt trong nông nghiệp – thích ứng biến đổi khí hậu

Theo góc nhìn Sở Nông nghiệp và PTNT Lâm Đồng, việc ứng dụng công nghệ 4.0 trong tình hình sản xuất nông nghiệp hiện nay phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu gần đây được tỉnh Lâm Đồng rất quan tâm. Tỉnh Lâm Đồng có kinh nghiệm lên đến 15 năm phát triển đối với nông nghiệp ứng dụng công nghệ hiện đại nên về mặt cơ sở vật chất hay hạ tầng sản xuất cũng như trình độ canh tác, chăn nuôi của nông dân Lâm Đồng có phần vượt trội so với mặt bằng chung của nước ta. Các doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân luôn sẵn sàng tiếp nhận các công nghệ tiên tiến,thông minh dễ dàng tạo sự khác biệt có lợi sản xuất, chăn nuôi và quản lý trang trại.

doi-moi-nong-nghiep

Những doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI, đã tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp, hợp tác xã, và nông dân trong tỉnh. Họ mở ra cơ hội tiếp cận và áp dụng các công nghệ thông minh, thúc đẩy việc hình thành liên kết sản xuất và mở rộng thị trường.

Chính quyền địa phương cũng đã đưa ra các Đề án quan trọng để thúc đẩy phát triển nông nghiệp thông minh. UBND tỉnh đã phê duyệt và triển khai một số đề án quan trọng nhằm đẩy mạnh quá trình phát triển ở địa phương. Cụ thể, những đề án như “Xây dựng thành phố Đà Lạt trở thành thành phố thông minh,” “Thí điểm xây dựng huyện Đơn Dương đạt nông thôn mới theo mô hình ứng dụng công nghệ cao với hướng thôn minh giai đoạn 2019 – 2025,” và “Thí điểm xây dựng mô hình Làng đô thị xanh tại xã Xuân Thọ, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng” đã chính thức được áp dụng và triển khai bởi chính quyền địa phương. Các đề án này đặt ra những mục tiêu rõ ràng và nhằm thúc đẩy sự đổi mới và tiếp cận công nghệ cao trong ngành nông nghiệp, góp phần tạo nên một cộng đồng nông dân thông minh và hiện đại.

Hiện nay, việc đổi mới và áp dụng công nghệ vào sản xuất nông nghiệp không chỉ mang lại lợi ích ngắn hạn mà còn tạo ra những thay đổi lâu dài về hiệu suất và năng suất. Sự giảm chi phí trong giao thông vận tải và truyền thông sẽ tạo ra hệ thống hậu cần và chuỗi cung ứng hiệu quả hơn, đồng thời giảm chi phí thương mại. Tất cả những cải tiến này có thể mở rộng thị trường và thúc đẩy tăng trưởng, tạo ra những cơ hội mới cho ngành nông nghiệp. Lợi ích cụ thể bao gồm lợi thế cạnh tranh của địa phương so với các khu vực khác, cũng như cơ hội để tỉnh Lâm Đồng đạt được sự nhanh chóng và tiên phong trong việc áp dụng nông nghiệp thông minh, dựa trên nền tảng công nghệ cao đã phát triển trong hơn 15 năm qua. Sự ứng dụng công nghệ mới có thể thúc đẩy năng suất lao động, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng. Chuyển đổi hệ thống sản xuất, quản lý, và quản trị doanh nghiệp theo hướng Cách mạng Công nghiệp 4.0 là một khía cạnh quan trọng. Kết nối máy móc và thiết bị trong công xưởng thông qua internet, cùng với việc sử dụng cảm biến để thu thập dữ liệu, mở ra nhiều tiềm năng trong việc nâng cao quy trình sản xuất. Tỉnh ủy Lâm Đồng đã đưa ra các định hướng trong Nghị quyết số 05/NQ-TU về phát triển nông nghiệp toàn diện, bền vững và hiện đại, đặt ra mục tiêu và hướng dẫn phát triển ngành nông nghiệp thông minh. 

Tóm lại, với những thuận lợi và định hướng này, hy vọng tỉnh Lâm Đồng sẽ phát triển nhiều trang trại/doanh nghiệp nông nghiệp thông minh 4.0 trong thời gian tới, tiếp tục đưa ngành nông nghiệp vào giai đoạn mới sau sự thành công của chương trình nông nghiệp công nghệ cao.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Ngành dâu tằm tơ Việt Nam chuyển hướng bền vững

Tham dự Hội nghị có sự tham dự Thứ trưởng Bộ NN&PTNT- Ông Phùng Đức Tiến; tham dự Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng-Ông Nguyễn Ngọc Phúc; cùng với các lãnh đạo các cục, vụ, đơn vị có trực thuộc của Bộ NN&PTNT; tham dự đại diện lãnh đạo UBND và ngành Nông nghiệp ở các tỉnh, thành nuôi trồng dâu tằm tơ trên cả nước ta.

thu-truong-phat-bieu-tai-hoi-nghi
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến phát biểu tại hội nghị

Tại Hội nghị của Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), báo cáo cho biết dâu tằm, một nghề truyền thống tại Việt Nam, đang phát triển nhanh chóng và đứng ở vị trí thứ 5 thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ, Uzbekistan và Thái Lan. Vùng Tây Nguyên là trung tâm lớn nhất với 77% diện tích trồng, trong khi các vùng khác như Đồng bằng Sông Hồng, Miền núi và Trung du, Bắc Trung bộ và Duyên hải Nam Trung bộ chiếm tỷ lệ từ 3 đến 11%.
Với giá kén vàng và kén trắng dao động từ 110.000 – 205.000 đồng/1kg, người trồng dâu nuôi tằm đang thu được thu nhập cao, lên đến gấp 2 đến 3 lần so với cây trồng khác như lúa, chè, mía. Tổng diện tích dâu tằm tăng mạnh, với tăng trưởng bình quân giai đoạn 2018-2022 là 12,15%. Sản lượng kén tằm cũng tăng đều, với tăng trưởng bình quân là 19,33%.
Mặc dù có sự gia tăng về sản lượng tơ tằm, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu hàng nghìn tấn tơ tằm từ Nhật Bản, Trung Quốc và Uzbekistan để gia công và xuất khẩu. Thị trường ngành dâu tằm tơ Việt Nam còn đang phải đối mặt với thách thức về thiếu thông tin, đầu tư và sự đa dạng sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm chế biến từ dâu tằm tơ có giá trị gia tăng cao.

Toan-canh-hoi-nghi
Toàn cảnh hội nghị

Tại Hội nghị Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), đại biểu đã nhận diện rằng ngành dâu tằm tơ ở Việt Nam đang đối mặt với nhiều hạn chế và thách thức, đặc biệt là trong quá trình sản xuất trứng tằm. Một vấn đề đáng lưu ý là sự phụ thuộc lớn vào nguồn trứng giống nhập từ Trung Quốc, khiến cho ngành chăn nuôi tằm trở nên không bền vững.

Các đại biểu đã thảo luận và đề xuất giải pháp ngắn hạn và dài hạn để xây dựng chiến lược phát triển ngành dâu tằm tơ tại Việt Nam. Đề xuất bao gồm việc tập trung vào nghiên cứu lai tạo giống dâu và tằm cao sản thế hệ mới, quy hoạch phát triển ngành trồng dâu nuôi tằm ở quy mô lớn và đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cũng như xây dựng hệ thống tiêu chuẩn cho các sản phẩm dâu tằm.

Phát biểu chỉ đạo của Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến tại Hội nghị nhấn mạnh rằng, mặc dù ngành dâu tằm tơ Việt Nam đã phải đối mặt với ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và hậu quả của nó, nhưng vẫn có sự tăng trưởng. Ông nhấn mạnh sự quan trọng của việc rà soát lại các khâu để đánh giá chính xác thực trạng, khó khăn, và hạn chế, và đề xuất hướng phát triển mạng và ổn định hơn.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng đề xuất việc kết nối ngành dâu tằm tơ Việt Nam chặt chẽ với thị trường thế giới, mở rộng hơn nữa. Ông đề nghị các đơn vị tập trung vào việc xây dựng đề án chiến lược phát triển ngành, tổ chức nghiên cứu và phát triển giống, quản lý khoa học công nghệ, và tăng cường công tác nghiên cứu sản xuất trứng giống tằm để giảm phụ thuộc vào nguồn ngoại.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Tin tức sự kiện

Có nên đầu tư vào môi trường nông nghiệp ngay hôm nay?

Peter Tasgal là cố vấn chiến lược cho ngành nông nghiệp và thực phẩm, đồng thời là người đồng sáng lập của Dự án Frambook, có trụ sở tại Boston, Hoa Kỳ.

Lưu ý: các quan điểm thể hiện trong bài viết của khách này là của riêng tác giả .

Bất chấp những quan điểm tiêu cực gần đây xung quanh vấn đề nông nghiệp môi trường được kiểm soát (CEA), cơ hội cho các nhà đầu tư vẫn còn ở khu vực Bắc Mỹ ngày nay.

Vào năm 2023, tài sản có thể đầu tư của CEA được chia thành hai loại. Đầu tiên là những doanh nghiệp có dòng tiền tự do và đội ngũ quản lý có kinh nghiệm về CEA. Sau đó, có những phần khởi nghiệp có giá trị có thể trở thành một phần của thế hệ doanh nghiệp khả thi mới.

Trong cả hai loại, giá của tài sản ngày nay sẽ thấp hơn đáng kể so với thời hoàng kim năm 2021, khi lãi suất thấp bất thường và mong muốn đầu tư vào tài sản nông nghiệp đã lên đến đỉnh điểm.

Tuy nhiên, môi trường ngày nay thực tế hơn nhiều và do đó, đầu tư vào lĩnh vực này có cơ hội thành công lâu dài cao hơn nhiều so với năm 2021.

trai-la-nho
Tuyển chọn các loại rau xanh từ Trang trại Lá Nhỏ. Nguồn hình ảnh: Trang trại Lá Nhỏ

Điều kiện đầu tư ngay hôm nay

Phân tích định giá các khoản đầu tư mới nên tập trung vào ba lĩnh vực sau:

Dự báo doanh thu thận trọng: Nhà đầu tư nên dự báo dựa trên khả năng hợp lý là có 1) số lượng sản xuất của một sản phẩm chất lượng và 2) số lượng bán ra phù hợp với kết quả thực tế.

Đội ngũ quản lý có kinh nghiệm về CEA: Phần lớn các hoạt động thành công đều có đội ngũ quản lý dày dặn kinh nghiệm về CEA.

Định giá dẫn đến tăng lãi suất: Lãi suất kho bạc đã tăng 300 đến 400 điểm cơ bản từ năm 2021 đến nay; mức tăng này phải được phản ánh qua tỷ suất lợi nhuận yêu cầu.

Môi trường đầu tư CEA: 2021 đến 2023

Môi trường đầu tư đã thay đổi đáng kể từ năm 2021 đến nay.

Ví dụ: vào năm 2021, lãi suất trái phiếu kho bạc trung bình 5 năm là dưới 1% so với lãi suất hiện nay là khoảng 4,5%.

Ngày nay cũng có một nhóm đầu tư lớn gồm các nhà đầu tư tín dụng tư nhân, trong đó một số nhà đầu tư lớn đã công khai yêu cầu lợi nhuận hiện tại của họ là 14% đến 15%.

Các công ty mua lại có mục đích đặc biệt (SPAC), rất phổ biến vào năm 2021, đã phải chịu khoản lỗ tổng thể lớn trong các hoạt động kinh doanh giai đoạn đầu; điều tương tự cũng đúng với các nhà đầu tư công ty tư nhân.

Bản thân các công nghệ CEA đã bị tụt hậu. Mặc dù một số đã cải thiện hiệu quả trong môi trường trồng trọt trong nhà nhưng những điều này vẫn chưa đủ để gây ra sự gián đoạn lớn trên thị trường. Tương tự, các sản phẩm truyền thống được trồng theo định dạng CEA cũng không đạt được mức tăng giá ngang bằng với mức lạm phát.

trang-trai-Oishii
Bên trong trang trại của Oishii. Nguồn hình ảnh: Oishii

Tất cả không bị mất trong CEA

Bất chấp làn sóng báo chí tiêu cực hiện nay, không phải tất cả đều xấu ở CEA ngày nay.

Các nhà khai thác nhà kính lớn, nhiều trong số đó đã kinh doanh trong nhiều thập kỷ, tiếp tục mở rộng, trở nên hiệu quả hơn và có lẽ sẽ mang lại kết quả tài chính.

Danh mục sản phẩm cũng đang được mở rộng. Ví dụ: dâu tây trồng trong nhà kính – thứ mà tôi coi là quyết định mua hàng quan trọng đối với người tiêu dùng – hiện đã có sẵn ở cấp độ bán lẻ.Costco và các nhà bán lẻ lớn khác luôn cung cấp dâu tây trồng trong nhà kính, mặc dù với giá cao hơn đáng kể so với giá của những người trồng thông thường.

Các nhà sản xuất rau diếp và lá xanh đã tìm ra cách để cạnh tranh với những người trồng ngoài trời. Ví dụ:Little leaf Frams là thương hiệu rau xanh trong nhà đầu tiên vượt qua rau xanh trồng trên đồng ở bất kỳ khu vực nào và hiện là thương hiệu rau diếp đóng gói bán chạy nhất ở New England.

Ở những nơi khác, các công ty độc nhất đang đạt được một số thành công, chẳng hạn như chuỗi nhà hàng phục vụ nhanh Wendy’s mua cà chua từ các nhà điều hành nhà kính và tìm kiếm thêm nguồn cung cấp rau diếp từ những môi trường đó.

Trong thế giới M&A, Freight Farms, công ty bán trang trại container hàng đầu ở Bắc Mỹ, đã ký kết thỏa thuận sáp nhập với Agrinam Acquisition Corp. để IPO thông qua SPAC.

Trong khi đó, Mastronardi Produce và Bosch Growers — cả hai đều có nhiều kinh nghiệm với CEA — hiện đang vận hành bốn trang trại CEA trước đây thuộc AppHarvest. Nhà điều hành trang trại dọc Kalera đã được tái cấp vốn và đang trong quá trình a
khởi chạy lại.

Đây rõ ràng là những bước phát triển tích cực đối với CEA, cũng như các công ty hoạt động tốt và có lợi nhuận khác đang tiếp tục mở rộng. Số lượng doanh nghiệp ở giai đoạn đầu tìm được nguồn vốn mới cũng là nguyên nhân gây ra sự lạc quan trong ngành – và là dấu hiệu rõ ràng cho thấy CEA có khả năng tồn tại lâu dài.

Ngành công nghiệp này sẽ được hỗ trợ thêm nhờ lạm phát giá sản phẩm. Khu vực sản xuất là một trong số ít khu vực bán lẻ có mức lạm phát giá hạn chế. Các nhà đầu tư thận trọng ngày nay đang giả định lạm phát giá ở mức hạn chế khi xác định giá trị.

Khi ngành tiến xa hơn so với năm 2021, khi người bán đặt kỳ vọng rất cao, định giá của người mua và người bán có thể sẽ xích lại gần nhau hơn.

Nguồn: agfundernews.com

Chuyên mục
Báo cáo chính sách NÔNG NGHIỆP 360

Công Nghệ Số cho Việc Theo Dõi trong Chuỗi Giá Trị Rau Quả tại Việt Nam

1-a 1-b 1-c 1-d 1-e 1-f 1-f

1-g

Xem đầy đủ tại đây: World-Bank-Report 2022 – Digital-Technology-for-Traceability.EN

Nguồn: World Bank Group

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Tập huấn an toàn thực phẩm cho nông dân huyện Thường Tín

Gần đây, Hội Nông dân ở Thường Tín đã hợp tác cùng Hội Nông dân TP Hà Nội để đào tạo hơn 100 cán bộ và thành viên về đề an toàn thực phẩm.buoi-truyen-dat-kien-tthuc

Buổi Tập Huấn An Toàn Thực Phẩm Dưới Sự Chủ Trì của Ông Nguyễn Thanh Xuân

Ông Nguyễn Thanh Xuân, Phó Chủ tịch Hội Nông dân TP Hà Nội, đã chủ trì buổi tập huấn trực tiếp với chủ đề “Phòng chống ngộ độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm”. Buổi đào tạo tập trung vào 7 vấn đề quan trọng, bao gồm việc nâng cao nhận thức về an toàn thực phẩm, hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng trong quá trình mua bán thực phẩm, cũng như các nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa ngộ độc thực phẩm. Ông Xuân cũng chia sẻ kiến thức về triệu chứng ngộ độc, nguyên tắc chế biến thực phẩm an toàn, và cách lựa chọn thực phẩm đường phố.

Sự hiểu biết được hội viên nông dân tích lũy từ buổi tập huấn không chỉ đảm bảo sức khỏe cá nhân mà còn góp phần bảo vệ sức khỏe của gia đình và cộng đồng. Quan trọng là việc lan truyền phương pháp lựa chọn thực phẩm an toàn, khuyến khích thói quen mua sắm thông minh với việc xác định nguồn gốc, phân biệt giữa “thực phẩm sạch” và “thực phẩm bẩn”, cùng việc áp dụng cách bảo quản và chế biến thực phẩm tốt cho sức khỏe. Điều này không chỉ giúp ngăn chặn bệnh lây lan qua thực phẩm mà còn đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng.

Quy Trình An Toàn Thực Phẩm ở Thường Tín: Hợp Tác Nông Dân và Tập Huấn Đồng Bộ

Quy trình đảm bảo an toàn thực phẩm tại huyện Thường Tín bắt nguồn từ khâu sản xuất. Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật thường xuyên phối hợp với Hội phụ nữ các xã để mở lớp tập huấn kiến thức trồng rau củ quả. Hội viên nông dân được đào tạo về kỹ thuật trồng an toàn theo chuẩn VietGAP và hữu cơ, đồng thời nắm vững cách ghi chép sổ nhật ký sản xuất. Quy trình này giúp họ hiểu rõ lợi ích của việc sản xuất an toàn đối với sức khỏe cá nhân, cộng đồng, và người tiêu dùng. Việc không sử dụng thuốc BVTV cấm và độc hại được thúc đẩy, thay vào đó là việc áp dụng các loại thuốc BVTV sinh học và an toàn, cùng với cách ly đầy đủ trước khi thu hoạch.

Lưu Thông và Tiêu Thụ An Toàn: Hỗ Trợ Doanh Nghiệp và Kiểm Soát Chặt Chẽ

Trong quá trình lưu thông và tiêu thụ, huyện Thường Tín tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ sản xuất bằng cách tham gia các sự kiện như hội chợ và triển lãm, nhằm nâng cao nhận thức về an toàn thực phẩm. Không chỉ giới hạn trong tháng hành động vì an toàn thực phẩm, huyện duy trì những hoạt động này quanh năm dưới nhiều hình thức khác nhau. Các đoàn liên ngành của huyện và xã tiến hành kiểm tra đột xuất và định kỳ, giám sát chặt chẽ các cơ sở sản xuất và kinh doanh thực phẩm. Trong vài tháng đầu năm 2023, Thường Tín đã kiểm tra 196 cơ sở, phát hiện và xử phạt hành chính cho 17 cơ sở có vi phạm, đóng góp vào việc duy trì an toàn thực phẩm trong cộng đồng.

Thách Thức An Toàn Thực Phẩm ở Huyện Thường Tín và Giai Đoạn Khó Khăn.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy huyện đang đối mặt với nhiều thách thức. Số lượng cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm tại đây rất lớn, nhưng cán bộ phụ trách công tác an toàn và vệ sinh thực phẩm lại thiếu hụt và trình độ của họ còn hạn chế. Nhiều máy móc và nhà xưởng của các doanh nghiệp bị xuống cấp, không đảm bảo chất lượng, nhưng vẫn thiếu vốn để đầu tư và nâng cấp. Chính sách hỗ trợ từ nhà nước cũng chưa đủ mạnh mẽ để thu hút các doanh nghiệp lớn đầu tư vào sản xuất và kinh doanh thực phẩm an toàn.

Ngoài ra, công tác thanh tra và kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm đang gặp khó khăn do thiếu các phương pháp test xét nghiệm nhanh để phát hiện các chất hóa học có hại như BVTV, độc tố từ vi khuẩn, vi nấm cũng như kim loại. Kiểm soát an toàn thực phẩm tại các chợ truyền thống càng trở nên khó khăn vì đa số nông dân không thói quen ghi chép nhật ký chăm sóc nông sản, thường chỉ thu hoạch và bán khi đến ngày, đến kỳ.

Thêm vào đó, nhiều hộ kinh doanh chuyên nghiệp không quan tâm đến nguồn gốc xuất xứ và quy trình sản xuất của nông sản, họ chỉ quan tâm đến mẫu mã và giá bán. Thói quen lưu giữ hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc và số lượng hàng hóa cũng ít người thực hiện, gây khó khăn khi cơ quan kiểm tra cần truy xuất nguồn gốc.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Nông Sản Bền Vững và Quy Mô Mới

“Dollars thực” cho nông dân: FBN và ADM có thể mang lại bền vững “ở quy mô” cho nông sản Mỹ.

Gần đây, Farmers Business Network (FBN) đã thông báo rằng họ đã “mở rộng diện tích đáng kể” đối tác của mình với tập đoàn nông nghiệp Archer Daniels Midland (ADM) để hỗ trợ các nông dân đang làm việc với hoặc chuyển đổi sang các phương pháp nông nghiệp tái tạo.

Ý tưởng là làm cho các phương pháp nông nghiệp như vậy trở nên tiếp cận chuẩn xác hơn đối với nhiều nông dân, hàng hóa ở Bắc Mỹ, và ứng dụng ở quy mô lớn. Quan trọng hơn, chương trình nhằm mục tiêu mang lại cho những nông dân chuyển đổi tức cực nhưng không phải ai cũng thích ứng được.

“Đây có lẽ là nền tảng cơ bản có thể thúc đẩy sự bền vững ở quy mô trong lĩnh vực hàng hóa,” Charles Baron, đồng sáng lập và Giám đốc Tiếp thị của FBN, theo đánh giá trên AgFunder News.

nhung-loai-cay
Những loại cây che phủ đang phát triển giữa các bãi cỏ, còn lại của lúa mì mùa đông. nguồn: iStock

‘Dollars thực’ đến tay nông dân.

“Đây hoàn toàn không phải là một chương trình quy mô nhỏ,” Ông Baron muốn. “Tổng giá trị thưởng dành cho nông dân trong năm nay thông qua các chương trình của ADM / FBN có thể lên đến hơn 22 tỷ đô la. Đây giờ đây là loại chương trình đang triển khai ở tầm quy mô lớn, và thông qua chương trình này ta sẽ nhìn thấy số tiền thực tế bắt đầu quay trở lại với nông dân.”

ADM là một trong những người mua lớn nhất thế giới về ngũ cốc, với 278 trung tâm mua sắm và 182 nhà máy chế biến chỉ tại Bắc Mỹ.

“Chúng tôi đã hợp tác với đến 55,000 nông hộ ở Bắc Mỹ, và điều này đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức đặt ra cho chúng tôi rất nhiều góc nhìn trong lĩnh vực này, họ cung cấp lúa mì trực tiếp cho ADM và vì vậy, họ là một nhà điều hành có ảnh hưởng lớn trong chuỗi cung ứng toàn cầu,” Ông Baron chia sẻ thêm: “Họ cũng hợp tác với các công ty CPG lớn nhất, các công ty thực phẩm lớn nhất, những công ty này sau đó sẽ có khả năng tham gia và khuyến khích các nông hộ các thực hành bền vững.”

Ông mong muốn mọi người thấu hiểu vấn đề ở đây: “ Chiếc chìa khóa này thật sự tạo ra sự khác biệt cho cả ngành nông nghiệp, nó đẩy mạnh nông nghiệp hướng tới vấn đề bền vững trong sản xuất hoặc dùng phần thưởng để thúc đẩy nông hộ ở phát triển quy mô lớn trong lĩnh vực hàng hóa. Chính chúng tôi xem xét điều này là rất cơ bản cho tương lai của hệ thống thực phẩm.”

Ông đưa ra lưu ý rằng khi FBN phát triển qua các năm, họ đã thấy sự quan tâm tăng lên từ phía khách hàng muốn sự hỗ trợ trong các thực hành bền vững và ưu đãi.

“Khi đội ngũ của chúng tôi triển khai cả hai sáng kiến tiếp thị lúa mì và sáng kiến phân tích dữ liệu, việc thực hiện bền vững trở thành một việc sử dụng tự nhiên của thông tin mà các người mua lúa mì của chúng tôi và các đối tác hợp tác xuôi dòng muốn khả năng kích thích,” ông nói.

“Xây dựng liên kết với nhiều đối tác đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt là với các tổ chức như ADM, POET [ethanol], và nhiều đối tác khác, với mục tiêu là trực tiếp thực hiện các bước giám sát và xác nhận cho nông dân có khả năng tham gia vào các chương trình nông nghiệp bền vững hoặc tái tạo và nhận được phần thưởng từ các hoạt động xuôi dòng.”FBN-nong-nghiep

2 triệu acre và vẫn đang đếm

Đôi chút thông tin về “Acre”:

“Acre” là một đơn vị đo diện tích thường được sử dụng trong nông nghiệp và đo lường đất đai. Một acre tương đương với khoảng 4,047 mét vuông hoặc 43,560 feet vuông. Đây là một đơn vị phổ biến để đo kích thước đất nông nghiệp, cũng như trong các hoạt động liên quan đến địa lý và xây dựng.

FBN và ADM đã bắt đầu một sự hợp tác ban đầu vào năm 2022, cho phép khách hàng của ADM sử dụng nền tảng quản lý doanh nghiệp nông nghiệp Gradable của FBN. Chương trình nhằm mục tiêu thưởng cho những nông dân thực hiện các biện pháp bảo tồn như che phủ đất, cày ít hoặc không cày và giảm lượng khí thải.
Kể từ khi khởi động, đối tác này đã thu hút 1,500 người trồng và chiếm hơn 1 triệu acre đất nông nghiệp.

Qua Gradable, FBN cung cấp công nghệ cho chương trình.

Người trồng gửi dữ liệu đến Gradable, nơi có thể xác nhận các thực hành bền vững của họ và tính toán các kết quả môi trường tương ứng. Nông dân có thể truy cập dịch vụ và liên kết thông tin tài khoản ADM của họ thông qua ứng dụng FBN để xem các vé cân, thanh toán và hợp đồng cần thiết khi họ bán ngũ cốc.

“Qua ADM, [Gradable] cung cấp phí thưởng và động viên cho người trồng, lên đến 25 đô la mỗi acre cho cả kết quả hoặc thực hành thực hiện,” Baron lưu ý.

Quá trình tích hợp Gradable “mở cửa cho bất kỳ ai bán ngũ cốc cho ADM,” ông thêm. Cuối cùng, quá trình tích hợp sẽ xử lý cả thanh toán.

Những người trồng này cũng có thể sử dụng ứng dụng FBN để đăng ký vào chương trình tái tạo của ADM, đó là một trong những dự án được hỗ trợ bởi kế hoạch Đối tác của USDA cho chương trình Hàng hóa Thông minh về Khí hậu. Thông qua chương trình tái tạo, người trồng có thể truy cập hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để thực hiện hoặc tiếp tục thực hành nông nghiệp tái tạo.

ADM và FBN đặt mục tiêu mở rộng chương trình tái tạo (re:generations) đến hơn 2 triệu acre, 18 bang tại Hoa Kỳ và ba tỉnh ở Canada vào năm 2023. Dự kiến có hơn 3,000 người trồng sẽ tham gia với các mặt hàng như ngô, đậu nành, lúa và bông.
Rewarding sustainability

Trong bối cảnh hợp tác với ADM, “nông nghiệp tái tạo” không có định nghĩa chuẩn ngành công nghiệp. Theo Baron, nó tập trung vào khả năng thưởng cho các thực hành và kết quả cụ thể về bền vững trên nông trại.

Trước đây, các đối tác như vậy thường phải được thực hiện từng cái một với từng đối tác hoặc công ty cụ thể, ông nói thêm.
“Có nhiều cố gắng trước đây từ các công ty thực phẩm hoặc các đối tác xuôi dòng, họ cố gắng tìm cách tiếp cận trực tiếp nông dân, cách thực hiện giám sát, xác nhận, khuyến khích, đăng ký, một quy trình rất phân mảng. Và cuối cùng, đa phần, điều này không diễn ra trong lĩnh vực hàng hóa.”

Theo Baron, người trồng cần có hướng dẫn rõ ràng, các giao thức hiệu quả và “một công nghệ và quy trình đăng ký đơn giản.”
“Đối với nông hộ, cuối cùng mọi thứ đều phải quy ra câu hỏi thực tế, ‘

Tôi sẽ trả tiền cho những thay đổi đó, như thế nào? Liệu nó có đáng để đưa hoạt động của người nông dân không? Rủi ro là gì, tôi sẽ quản lý và thực hiện những thay đổi này như thế nào?”

“Khi nông hộ bắt đầu mùa vụ mới của họ, chúng tôi mong muốn có thể tham gia giám sát cả quá trình và đưa thực hành kinh doanh vào các chương trình bền vững hoặc chương trình tái tạo, một loạt các cơ hội khác có thể mở ra trước mắt họ.”

Nguồn: Agfundernews.com

Chuyên mục
Báo cáo chính sách NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Tăng Cường Kinh Tế Tuần Hoàn trong Trồng Trọt

Trong lĩnh vực trồng trọt, khái niệm về “kết thúc vòng đời” không còn tồn tại. Thay vào đó, chúng ta hướng tới việc giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, và thu hồi nguyên liệu cùng sản phẩm phụ trong mọi giai đoạn của chuỗi sản xuất, phân phối, chế biến, và tiêu dùng ở nhiều cấp độ từ nhỏ đến lớn. Điều này đồng thời nâng cao chất lượng môi trường và kinh tế, vừa tạo ra sự cân bằng và phát triển toàn diện.

nong-san-thang-11-292Theo Cục Trồng trọt, chiến lược kinh tế tuần hoàn trong trồng trọt sẽ tập trung vào việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, và công nghệ hóa lý để tối đa hóa giá trị và giảm phát sinh phụ phẩm và chất thải. Áp dụng khoa học vào nông nghiệp như: Công nghệ sinh học, công nghệ hoá lý,… nhằm thích ứng tối đa với việc hóa trị và giảm phát sinh phụ phẩm và chất thải, đồng thời tiết kiệm tài nguyên. Tái chế chất thải và phế phẩm không chỉ giảm lãng phí mà còn cung cấp nguyên liệu cho các quy trình sản xuất tiếp theo.

Tại Việt Nam, đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực nông nghiệp. Sử dụng chất thải và nước thải từ chăn nuôi và trồng trọt để sản xuất và sử dụng khí đốt đó là một phương tiện quan trọng. Hơn nữa, còn tồn tại những mô hình kết hợp giữa nông nghiệp, thủy sản và chăn nuôi, cũng như sự hòa quyện giữa nông lâm và vườn-rừng. Tận dụng phụ phẩm nông nghiệp để tạo chất xúc tác và các sản phẩm có giá trị khác đó là một cách tích cực hỗ trợ quá trình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp.

Những mô hình này không chỉ mang lại tăng cường hiệu suất kinh tế mà còn đóng góp vào việc giảm lượng chất thải và phát thải khí nhà kính. Chúng đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Sự đa dạng này của mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đang góp phần tích cực vào sự bền vững và phát triển của ngành nông nghiệp tại Việt Nam.

Mô hình sử dụng phụ phẩm rơm rạ trong trồng lúa không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất lúa mà còn mang lại nhiều lợi ích khác. Việc này giúp đa dạng hóa sản phẩm, giảm sử dụng phân bón hóa học và cải tạo chất lượng đất. Ngoài ra, nguyên liệu từ phụ phẩm rơm rạ cũng được tận dụng trong trồng nấm, và sau khi thu hoạch nấm, bã còn lại được tái chế để bón cho cây trồng.

Theo Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Ninh Thuận, với tổng diện tích đất nông nghiệp gần 291.000ha, trong đó có 84.800ha đất sản xuất nông nghiệp, nông nghiệp tuần hoàn đang phát triển mạnh mẽ tại địa bàn này. Các nỗ lực trong hướng này đang đem lại hiệu quả tích cực, và tốc độ nhân rộng cũng đang tăng mạnh trong những năm gần đây.

Mô hình sản xuất tại các trang trại của GC Food Group Ninh Thuận, như VietFarm, trang trại Nắng và Gió, là một điển hình thành công trong việc áp dụng nông nghiệp tuần hoàn. Trang trại này không chỉ hiệu quả mà còn có những ứng dụng sáng tạo. Để tránh lãng phí, GC Food Group thu gom và ủ men vi sinh từ vỏ và bẹ nha đam từ nhà máy của họ. Theo đúng tiến độ, chúng sẽ được kết hợp với phân gia súc, mục đích chính là tạo thành phân hữu cơ, phục vụ cho nhu cầu nuôi trồng của các loại cây trồng như: nha đam, nho, táo, và đồng cỏ để chăn nuôi gia súc như: bò và cừu.

Thời gian gần đây, việc phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đã trở thành quá trình sản xuất theo chu trình đóng đẹp. Điều này được thực hiện thông qua việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, và công nghệ hóa lý, cũng như tái chế chất thải và phế phụ phẩm. Sau đó, những nguyên liệu này được tái sử dụng vì mục đích có lợi trong quá trình nuôi trồng, chế biến cho ngành nông nghiệp để tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng cao, giảm lãng phí và thất thoát, đồng thời giảm thiểu lượng chất thải. Điều này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về quan trọng của việc tái sử dụng phụ phẩm và phế phẩm trong quá trình sản xuất, hỗ trợ bảo vệ môi trường.

Hiện tại, trên địa bàn tỉnh, nhiều mô hình kinh tế tuần hoàn đã mang lại kết quả tích cực. Một trong những hình ảnh từ người đi đầu là Công ty TNHH Dalat Hasfarm, đã thực hiện mô hình liên quan đến việc thu gom và xử lý phế phẩm từ các loại cây trồng như: hoa, rau tại trang trại tại xã Đạ Ròn, huyện Đơn Dương với diện tích hơn 200ha nhà kính. Sử dụng công nghệ tích hợp và máy móc hóa cơ giới, đơn vị này đã có thể tái chế khoảng 35.000m3 đến 36.000m3 phế phẩm hàng năm. Mục đích cuối cùng vẫn là nâng cao hiệu suất đầu ra và giảm sức lao động, đánh dấu hành trình đi đến hiện đại hóa sản xuất nhưng không gây hại, ảnh hưởng đến môi trường con người.

Tuy nhiên, theo thông tin từ Cục Trồng trọt, việc khuyến khích phát triển nông nghiệp tuần hoàn ở Việt Nam vẫn đối mặt với một số khó khăn. Nhận thức về nông nghiệp tuần hoàn của các bên liên quan như người quản lý, người sản xuất, cộng đồng và người tiêu dùng vẫn chưa đầy đủ. Cùng nhìn lại đôi chút ta sẽ thấy được việc thúc đẩy nông nghiệp tuần hoàn vẫn chưa được quan tâm đúng đắn nên chưa tạo ra những kết quả tức cực, một phần là chính sách hỗ trợ vẫn chưa hoàn thiện hết.

Đáng chú ý ở đây, công nghệ liên quan đến chế phụ phẩm cây trồng qua việc thu gom, tái chế và xử lý đang mặc đối với thách thức của sự thiếu hụt và phân tán. Các công nghệ hiện nay đòi hỏi tiềm lực kinh tế đáng nể và không thật sự đáp ứng hoàn toàn được nhu cầu của nông dân. Đồng thời, các kết nối bền vững trong hệ thống nông nghiệp, bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, và chế biến, chưa được hình thành theo mô hình kinh tế tuần hoàn, điều này gây ra thiếu sót trong việc tăng giá trị và kéo dài vòng đời sản phẩm, cũng như làm tăng chi phí.

Ngoài ra, còn thiếu tính liên kết và đa ngành trong quá trình phát triển các mô hình nông nghiệp tuần hoàn để tối ưu hóa giá trị cho người sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Quy mô sản xuất thường nhỏ lẻ, chi phí cao, và chưa có các mô hình hiệu quả để giảm giá thành. Thị trường cho các sản phẩm từ nông nghiệp tuần hoàn trong trồng trọt còn hạn chế và chưa đủ minh bạch về việc nhận diện sản phẩm và truy xuất nguồn gốc. Những thách thức này đang tạo ra rào cản đối với sự phát triển bền vững và hiệu quả của nông nghiệp tuần hoàn.

Tại tỉnh Lâm Đồng, phương thức sản xuất nông nghiệp tuần hoàn hiện chỉ áp dụng đối với các mô hình trang trại tổng hợp. Tính chất của nó chưa hoàn toàn khép kín và chủ yếu là tự phát triển. Các doanh nghiệp thu mua chất thải nông nghiệp hiện còn ít, họ chủ yếu tập trung vào việc tái sử dụng cho cây trồng của các chủ trang trại hoặc thương lái nhỏ lẻ.

Vì vậy, trong thời gian sắp tới, cần tăng cường sự thông tin và giới thiệu về mô hình nông nghiệp tuần hoàn, đặc biệt là những mô hình mang lại hiệu suất và ảnh hưởng tích cực. Điều này sẽ hỗ trợ việc lan tỏa và mở rộng chúng trong quá trình sản xuất. Đồng thời, việc xây dựng các chính sách khuyến khích và ưu đãi cho các doanh nghiệp áp dụng kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp trở nên vô cùng quan trọng, nhằm khuyến khích sự áp dụng rộng rãi và bền vững của chúng trong cộng đồng sản xuất. Cần có chính sách hỗ trợ cho nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực này.

Để tạo ra sự đồng bộ và kết nối trong cộng đồng, cần phát triển môi trường khuyến khích sự liên kết giữa trang trại, doanh nghiệp và cộng đồng. Điều này sẽ đóng góp vào sự ổn định và bền vững trong chuỗi sản xuất và môi trường, đồng thời hướng tới một nền kinh tế xanh. Sử dụng công nghệ để tái chế và xử lý phụ phẩm nông nghiệp thành phân bón hữu cơ cũng là một biện pháp quan trọng để hỗ trợ quá trình sản xuất. Mọi nỗ lực này nhằm đạt được mục tiêu phát triển nông nghiệp tuần hoàn và sinh thái trong lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

FAO: Biến đổi chỉ số lương thực tháng 10

Trong tháng 10, giá cả của nhiều mặt hàng thực phẩm trên thị trường thế giới đã ghi nhận sự giảm nhẹ, giảm tỷ lệ 0,5% so với tháng 9. Chỉ có một số ít sản phẩm thuộc nhóm sữa và sản phẩm sữa có sự tăng giá.

dau-an-gao-duong

Theo thông tin từ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), chỉ số giá thực phẩm, được sử dụng để theo dõi biến động hàng tháng về giá cả quốc tế của các sản phẩm lương thực và thực phẩm quan trọng, đã đạt mức trung bình là 120,6 điểm trong tháng 10, đồng nghĩa với việc giảm 10,9% so với cùng kỳ năm trước.

Cụ thể, trong tháng này, Chỉ số giá ngũ cốc đã giảm 1% so với tháng trước. Giá gạo trên thị trường thế giới cũng giảm 2%, đặc biệt khi nhu cầu nhập khẩu quốc tế trên toàn cầu giảm sút. Trong khi đó, giá lúa mì đã giảm 1,9% do nguồn cung cấp dồi dào từ Mỹ và sự cạnh tranh sắc nét giữa các nước xuất khẩu. Trong khi đó, giá ngô đã có mức tăng nhẹ, chủ yếu là do giảm cung cấp từ Argentina.

Trong tháng 9, chỉ số giá dầu thực vật đã giảm 0,7% so với tháng trước, với sự dẫn đầu bởi giá dầu cọ giảm do sản lượng tăng theo mùa và nhu cầu nhập khẩu toàn cầu giảm, mặc dù điều này đã được bù đắp bởi sự tăng giá của dầu đậu nành, hướng dương và hạt cải dầu. Giá dầu đậu nành đang tăng vì cầu từ ngành dầu diesel sinh học đạt mức mạnh mẽ.

Chỉ số giá đường đã ghi nhận sự giảm 2,2% trong tháng, mặc dù vẫn cao hơn 46,6% so với cùng kỳ năm trước. Sự giảm này chủ yếu đến từ tốc độ sản xuất mạnh mẽ tại Braxin, mặc dù lo ngại về triển vọng nguồn cung cấp toàn cầu chặt chẽ hơn trong tương lai đã hạn chế phần nào sự giảm giá.

Chỉ số giá thịt đã giảm 0,6% do nhu cầu nhập khẩu chậm, đặc biệt từ khu vực Đông Á, dẫn đến giảm giá thịt lợn quốc tế. Tuy nhiên, điều này đã được bù đắp bởi sự tăng nhẹ của giá thịt gia cầm, thịt bò và thịt cừu.

Trong khi đó, chỉ số giá sữa đã tăng 2,2% trong tháng 10, chấm dứt chuỗi giảm giá kéo dài 9 tháng. Sự tăng này chủ yếu đến từ giá sữa bột toàn cầu tăng mạnh do nhu cầu nhập khẩu gia tăng từ cả nguồn cung ngắn hạn và dài hạn, cũng như một số không ổn về tác động của điều kiện thời tiết El Niño đối với sản lượng sữa sắp tới ở khu vực Thái Bình Dương.

Nguồn: Mard.gov.vn