Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Thúc đẩy sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học.

Ngày 2/11, tại TP. Hồ Chí Minh, Bộ NN&PTNT tổ chức hội nghị về “Sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học”, với sự tham dự và chủ trì của Thứ trưởng Hoàng Trung.

Thu-truong-Hoang-Trung-phat-bieu-tai-hoi-nghi
Thu-truong-Hoang-Trung-phat-bieu-tai-hoi-nghi

Trong bài phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Hoàng Trung đã đề cập đến việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học với nhiều lợi ích như bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, đảm bảo an toàn cho người sử dụng, và không để lại tồn dư thuốc trong nông sản, từ đó đảm bảo chất lượng đầu ra sản phẩm và đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.

Ông cũng đánh giá cao nỗ lực của các doanh nghiệp, hiệp hội và địa phương trong việc thúc đẩy ứng dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Ông nhấn mạnh rằng việc xây dựng mô hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học, thay đổi nhận thức và tư duy của cộng đồng, cùng với việc phát triển sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật sinh học và ứng dụng chúng vào sản xuất đã tạo ra những kết quả tích cực.

Theo thông tin từ tổ chức CropLife Châu Á, trên toàn cầu, có khoảng 300 hoạt chất và sinh vật trừ sâu sinh học. Ở Bắc Mỹ, tỷ lệ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học đứng đầu. Trong đó, thuốc trừ sâu sinh học chiếm tỷ lệ lớn nhất, trong khi thuốc hoá học có nguồn gốc tự nhiên chiếm 1/3 thị trường thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Trong giai đoạn từ 2005 đến 2025, thị trường thuốc bảo vệ thực vật sinh học đang có mức tăng trưởng bình quân hàng năm ở mức 10%, trong khi tỷ lệ tăng trưởng của thuốc hoá học đang giảm 3% mỗi năm.

Để thực hiện cụ thể các chính sách về thuốc bảo vệ thực vật sinh học tại Việt Nam, Cục Bảo vệ thực vật đã phát triển và triển khai chương trình “Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học giai đoạn 2021 – 2025”.

Thông tin chi tiết về kết quả triển khai chương trình, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật Huỳnh Tấn Đạt đã cho biết rằng, cả nước hiện đã có 99 cơ sở sản xuất thuốc bảo vệ thực vật đủ điều kiện, trong đó có 85 cơ sở sản xuất thuốc bảo vệ thực vật sinh học.

Cho đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã sản xuất gần 30 dạng thuốc bảo vệ thực vật sinh học thành phẩm khác nhau, bao gồm nhiều dạng tiên tiến và an toàn như dạng hạt phân tán trong nước, dầu phân tán, đậm đặc tan trong nước, và dạng hạt. Ngoài ra, các công nghệ sản xuất thuốc bảo vệ thực vật sinh học phổ biến trên toàn cầu cũng đã được đăng ký, sản xuất và áp dụng tại Việt Nam, bao gồm sản xuất thuốc sinh học nano, thuốc sinh học chiết xuất từ thảo mộc, thuốc sinh học chứa các vi sinh vật, và thuốc có nguồn gốc từ virus hoặc tuyến trùng.

Lượng thuốc bảo vệ thực vật sinh học nhập khẩu đã có sự tăng dần trong những năm gần đây. Năm 2020, nước ta đã nhập khẩu 21,9 nghìn tấn thuốc bảo vệ thực vật, trị giá 89,4 triệu USD. Trong năm 2021, lượng nhập khẩu đã tăng lên 28,2 nghìn tấn, trị giá 113,8 triệu USD. Năm 2022, lượng nhập khẩu là 25,2 nghìn tấn, trị giá 111,2 triệu USD. Trong 9 tháng đầu năm nay, nước ta đã nhập khẩu 13,5 nghìn tấn thuốc bảo vệ thực vật, trị giá 50,5 triệu USD.

Trong 3 năm gần đây, tổng lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng trung bình cả nước đang có xu hướng giảm dần qua từng năm, giảm từ 3,81kg/ha vào năm 2020 xuống còn 3,19 kg/ha vào năm 2022. Tuy nhiên, lượng thuốc bảo vệ thực vật sinh học vẫn duy trì ổn định và có xu hướng tăng từ 16,67% vào năm 2020 lên 18,49% vào năm 2022.

Toan-canh-hoi-nghi
Toan-canh-hoi-nghi

Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu tích cực, song việc sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học hiện nay vẫn đối diện với một số hạn chế. Hội nghị nhận thấy rằng, ngành nông nghiệp chưa có những chính sách cụ thể để thúc đẩy nghiên cứu, hỗ trợ vốn và đầu tư cho phát triển sản xuất, kinh doanh và hoạt động xoay quanh thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Sự phụ thuộc lớn vào các đối tác nước ngoài về bản quyền, nguyên liệu và công nghệ cũng đưa đến tình trạng thị trường không ổn định.

Hầu hết các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học hiện có trên thị trường Việt Nam đều được nhập khẩu từ nước ngoài. Các thủ tục đăng ký sản xuất và thử nghiệm thuốc cũng gặp phải nhiều khó khăn. Hệ thống trang thiết bị và phòng thí nghiệm nghiên cứu, kiểm tra chất lượng về thuốc bảo vệ thực vật sinh học cũng chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tế.

Trong phát biểu, ông Huỳnh Tất Đạt, đại diện từ Cục Bảo vệ thực vật, cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký, kiểm tra và thuốc bảo vệ thực vật sinh học được đưa vào danh mục thuốc được phép ứng dụng tại Việt Nam. Ông cũng cam kết hỗ trợ nhập khẩu, nghiên cứu và thử nghiệm các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học như vi sinh vật và thảo mộc, cùng việc xây dựng quy trình và hướng dẫn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học cho các loại cây trồng có giá trị kinh tế và tiềm năng xuất khẩu.

Cùng với đó, việc phối hợp với các địa phương, Hội, Hiệp hội, doanh nghiệp để thiết lập các mô hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học cũng sẽ tiếp tục. Đặc biệt, sự ưu tiên sẽ được đặt cho việc lựa chọn cây trồng chủ lực, có giá trị kinh tế cao, có tiềm năng xuất khẩu; vùng có nguy cơ mất an toàn do sử dụng thuốc hóa học; cũng như vùng sản xuất hữu cơ và chuyên canh.

Để thực hiện hiệu quả Chương trình hướng tới thúc đẩy sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học trong giai đoạn từ 2021 đến 2025, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật Huỳnh Tấn Đạt đã đề xuất các bộ, ngành bổ sung và ưu tiên các chính sách nhằm khuyến khích phát triển sản xuất và hỗ trợ nông dân trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Đồng thời, việc rà soát và cắt giảm các quy định, điều kiện liên quan đến quản lý thuốc bảo vệ thực vật sinh học cũng được đề xuất. Hơn nữa, đề xuất miễn giảm phí, thuế nhập khẩu, sản xuất và kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Các địa phương cũng cần ban hành chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển sản xuất, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học, đặc biệt là khuyến khích sử dụng thuốc sinh học trong quy mô nông hộ trên địa bàn.

Đối với Cục Bảo vệ thực vật, cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký, khảo nghiệm và đưa thuốc bảo vệ thực vật sinh học vào danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép dùng trong nông nghiệp tại Việt Nam Hỗ trợ nhập khẩu, nghiên cứu và thử nghiệm các thuốc bảo vệ thực vật sinh học nhóm vi sinh, thảo mộc cũng là cam kết của cơ quan này. Đồng thời, việc xây dựng quy trình và hướng dẫn sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học cho các loại cây trồng có giá trị kinh tế và tiềm năng xuất khẩu cũng được đề xuất.

Đồng thời, cũng tiếp tục phối hợp với các địa phương, Hội, Hiệp hội, và doanh nghiệp để lựa chọn và triển khai xây dựng các mô hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Trong đó, sự ưu tiên sẽ được đặt cho việc lựa chọn các loại cây trồng chủ lực, có giá trị kinh tế cao và có tiềm năng xuất khẩu; cũng như vùng đất có nguy cơ mất an toàn do sử dụng thuốc hóa học, và vùng sản xuất hữu cơ hoặc chuyên canh.

Kết luận của Hội nghị, Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hoàng Trung nhấn mạnh rằng trong thời gian tới, ngành nông nghiệp sẽ tiến hành rà soát và đề xuất xây dựng các chính sách cụ thể để khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức cũng như cá nhân đầu tư phát triển sản xuất và ứng dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học vào nông nghiệp. Đồng thời, việc đơn giản hóa thủ tục hành chính cũng sẽ được ưu tiên. Hơn nữa, sẽ tăng cường hướng dẫn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học tại các địa phương.

Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp cũng cần mạnh mẽ hơn trong việc sản xuất thuốc bảo vệ thực vật sinh học trong nước; tiếp tục hoàn thiện phương pháp thử kiểm tra thuốc bảo vệ thực vật sinh học; nghiên cứu đáng tin cậy và thực chất về các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học, nhằm đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người dân, không chỉ dừng lại ở mức thử nghiệm. Hơn nữa, sẽ tăng cường hợp tác quốc tế và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước từ nhiều phần tử kinh tế khác nhau, nhằm phát triển sản xuất thuốc bảo vệ thực vật sinh học tại Việt Nam.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Miền Nam hướng tới vụ Đông Xuân đạt 6,2 triệu tấn thóc năm 2023-2024.

Trong vụ Đông Xuân 2023-2024, khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, và duyên hải Nam Trung Bộ dự kiến gieo trồng lúa trên diện tích 406 nghìn ha. Dự kiến năng suất trung bình là 65,70 tạ/ha, tăng 0,27 tạ/ha so với mùa trước, ước tính sản lượng đạt khoảng 2,67 triệu tấn thóc, tăng 0,27 nghìn tấn so với vụ Đông Xuân 2022-2023.Hoi-nghi-lua-gao

Thông tin từ Hội nghị sơ kết sản xuất trồng trọt vụ Hè Thu và vụ Mùa 2023 cũng như kế hoạch sản xuất vụ Đông Xuân 2023-2024 tại khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ được thông báo tại hội nghị tổ chức tại Quảng Ngãi ngày 31/10, do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) hợp tác với UBND tỉnh Quảng Ngãi tổ chức.

Theo báo cáo của Cục Trồng trọt, diện tích gieo trồng lúa trên vùng đã đạt hơn 1 triệu ha trong năm 2023. Năng suất trung bình đạt 60,24 tạ/ha, tăng 1,33 tạ/ha so với năm trước, với sản lượng ước tính đạt 6,2 triệu tấn thóc, tăng 130 nghìn tấn so với năm 2022.

Vùng này đã chuyển đổi khoảng 19.751 ha đất lúa không hiệu quả sang việc trồng các loại cây khác, như khoai lang Nhật, dưa hấu, thuốc lá, và ngô sinh khối, đem lại hiệu suất kinh tế cao. Lợi nhuận từ việc chuyển đổi này dao động từ 25-220 triệu đồng/ha tuỳ thuộc vào loại cây trồng cụ thể.

Trong lĩnh vực cây công nghiệp và cây ăn quả, khu vực đã duy trì diện tích hiện có, đặc biệt là với các loại cây lớn như cà-phê, hồ tiêu, cao su, và điều, với tăng trưởng sản lượng từ 1-2% so với năm 2022. Các chương trình tái canh cà-phê tại các tỉnh Tây Nguyên đã thể hiện hiệu quả tốt.

Ngoài ra, các tỉnh Tây Nguyên đã phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, đặc biệt là trong lĩnh vực cây ăn trái và cây công nghiệp. Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm đồng đều, chất lượng, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, đặc biệt là tại các thị trường khó tính.

Công tác dự báo và phòng trừ sâu bệnh được thực hiện thường xuyên, đảm bảo cảnh báo kịp thời về tình hình sâu bệnh trên cánh đồng, giúp nông dân chuẩn bị phòng trừ một cách hiệu quả, từ đó giảm thiểu tổn thất do sâu bệnh gây ra.

Đồng thời, việc tăng giá lúa kể từ cuối vụ Hè Thu 2023 đã thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường hợp tác với hộ dân để đảm bảo tiêu thụ và mua lúa, giúp nông dân yên tâm về việc tiêu thụ sản phẩm khi vào mùa thu hoạch. Ngoài việc sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước, hầu hết các địa phương cũng đã tập trung vào việc xuất khẩu, đảm bảo chuẩn bị các điều kiện cần thiết như kiểm tra, thanh tra, và việc cấp phép mã số vùng trồng cùng với việc đóng gói, nhằm đáp ứng yêu cầu về xuất khẩu nông sản.

Tại hội nghị, các đại biểu đã tập trung thảo luận, phân tích và đánh giá các khó khăn, hạn chế cần được giải quyết, đồng thời đưa ra những kinh nghiệm và đề xuất giải pháp để thực hiện kế hoạch sản xuất vụ Đông Xuân 2023-2024 một cách hiệu quả.

Theo kế hoạch, vụ Đông Xuân 2023-2024, khu vực sẽ gieo trồng lúa trên diện tích 406 nghìn ha; mục tiêu năng suất trung bình là 65,70 tạ/ha, với mục tiêu tăng 0,27 tạ/ha. Sản lượng dự kiến đạt 2,67 triệu tấn thóc, tăng 0,27 nghìn tấn so với vụ Đông Xuân 2022-2023.

Để đạt được mục tiêu trên, Cục Trồng trọt đã đề xuất một số khuyến nghị cụ thể cho từng vùng, bao gồm việc lên lịch trồng theo mùa, sử dụng giống cây tiên tiến, và áp dụng kỹ thuật canh tác hiện đại. Đồng thời, việc quản lý tài nguyên nước cũng được nhấn mạnh, bao gồm việc sử dụng nước một cách tiết kiệm và hiệu quả. Các vùng gặp nguy cơ hạn hán cần thay đổi lịch trình sản xuất, và áp dụng kỹ thuật canh tác phù hợp để giảm thiểu tác động của hạn hán và mặn đến sản lượng lúa.

Đối với cây màu và cây công nghiệp có chu kỳ ngắn, việc cơ cấu cây trồng cần được thực hiện một cách hợp lý, tận dụng ưu thế cạnh tranh của từng vùng sinh thái. Sử dụng giống cây phù hợp với thị trường, có khả năng chống chịu và đầu tư vào canh tác hiệu quả để tăng năng suất.

Đối với cây công nghiệp có chu kỳ dài và cây ăn quả, việc tăng cường chỉ đạo sản xuất, đầu tư và chăm sóc cây trồng, cùng với việc mở rộng diện tích trồng mới và tái canh, sẽ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm. Việc tạo liên kết sản xuất và tiêu thụ theo hướng sản xuất hàng loạt cũng cần được tăng cường.

Trong phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Hoàng Trung đề xuất các tỉnh trong khu vực tập trung vào việc chuyển đổi các vùng thiếu nước tưới sang trồng cây cạn ngắn ngày để tăng cường hiệu suất sản xuất và tiết kiệm nước tưới. Ông cũng đề nghị tập trung thực hiện Đề án Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao liên kết với tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Việc theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết và lượng nước sẽ giúp đảm bảo sự bảo vệ sản xuất và giảm thiểu thiệt hại. Ông cũng nhấn mạnh về việc xây dựng kế hoạch phòng chống hạn và xâm nhập mặn, cũng như ứng phó kịp thời khi gặp tình huống hạn, mặn và thiếu nước tưới trong mùa khô.

Thứ trưởng Hoàng Trung cũng khuyến khích các địa phương tập trung vào việc tăng giá trị trên mỗi đơn vị diện tích gieo trồng, đồng thời tập trung vào việc giảm chi phí đầu vào và mở rộng việc cấp phép mã số vùng trồng, cũng như số lượng cơ sở đóng gói. Việc này được coi là một bước tiến quan trọng để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và thúc đẩy sự bền vững của ngành.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Giá sầu riêng Musang King Việt Nam chạm mức thấp kỷ lục.

Theo báo cáo của các phương tiện truyền thông Việt Nam, giá sầu riêng Musang King gần đây đã giảm mạnh tới 70% so với năm ngoái, chủ yếu do chất lượng giảm sút. Giá hiện tại của loại sầu riêng này là 80.000 đồng mỗi kilogram, đánh dấu mức thấp lịch sử.

Một nông dân tại tỉnh Đắk Lắk, thuộc khu vực Tây Nguyên, cho biết giá Musang King hiện tại đã giảm dưới mức giá của sầu riêng Monthong chất lượng cao. Sầu riêng Musang King từ Việt Nam trong những năm gần đây rất được săn đón, đạt giá 250.000-300.000 đồng mỗi kilogram khi bán buôn. Trong khi đó, giá bán lẻ thường vượt quá 500.000-700.000 đồng mỗi kilogram. Tuy nhiên, năm nay, sự giảm sút quan tâm từ các thương lái đã khiến giá giảm xuống chỉ còn 100.000 đồng mỗi kilogram.

Sản lượng sầu riêng Monthong phụ thuộc vào tuổi của cây, với mức sản xuất trung bình từ 10-20 tấn mỗi hecta. Trái lại, cây sầu riêng Musang King chỉ cho một nửa số lượng đó, với trái hiếm khi vượt quá 1,5 kilogram, làm cho chúng khó bán với giá cao.

Để phản ứng mạnh mẽ với tình hình thị trường này, một nông dân từ tỉnh Tiền Giang miền Nam được cho là đã chặt hạ 200 cây sầu riêng Musang King đã trồng được sáu năm, gây ra tổng số lỗ hỏng 6 tỷ đồng (244.000 đô la Mỹ). Theo nông dân, việc trồng sầu riêng Musang King ít phù hợp với điều kiện địa phương, dẫn đến sản lượng thấp và chất lượng trái không tốt. Năm nay, sầu riêng Musang King của nông dân này chỉ bán được với giá 80.000 đồng mỗi kilogram.

Trồng sầu riêng tại Việt Nam tập trung chủ yếu ở khu vực miền Nam và Tây Nguyên. Thú vị là giá sầu riêng Kanyao đã tăng từ cuối tháng Mười. Vào ngày 22 tháng Mười, sầu riêng Kanyao loại Ri6 được bán với giá từ 83.000-93.000 đồng ($3,38-3,78) mỗi kilogram, trong khi sầu riêng Kanyao thông thường có giá từ 75.000-80.000 đồng ($3,05-3,25) mỗi kilogram. Giá mua sầu riêng Monthong chọn lọc đạt từ 87.000-93.000 đồng ($3,54-3,78) mỗi kilogram, trong khi sầu riêng Monthong thông thường được bán với giá từ 76.000-82.000 đồng ($3,09-3,34) mỗi kilogram.

Các chuyên gia trong ngành cho biết rằng sầu riêng Musang King được trồng tại Việt Nam có chất lượng thấp hơn so với đối thủ Malaysia, làm cho việc đề xuất giá cao trở nên khó khăn. Đặng Mạnh Khuông, một thương gia tại thành phố Cần Thơ miền Nam, nhấn mạnh rằng giá sầu riêng Musang King đã trải qua một sự giảm mạnh mặc dù cung ứng đã giảm. Musang King, một lúc được xem là loại sầu riêng tốt nhất thế giới, hiện đang gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các loại khác về cả giá và sản lượng, ít nhất là tại Việt Nam.

Nguồn: Producereport

Chuyên mục
Kiến thức nông nghiệp NÔNG NGHIỆP 360

Báo cáo FAO về Khí Methane từ Chăn Nuôi và Lúa Gạo.

Báo cáo mới của FAO cung cấp đánh giá toàn diện về các phương pháp tiếp cận hiệu quả, linh hoạt và bền vững trong sản xuất nông sản và thực phẩm, hướng tới bảo vệ môi trường.

bo-lua-gao

Sự gia tăng của khí methane được xác định là một yếu tố quan trọng tác động tiêu cực đến khủng hoảng khí hậu, đẩy mạnh sự chú ý đến các biện pháp giảm thiểu khí thải methane trong lĩnh vực nông nghiệp quan trọng. Với mục tiêu tăng cường hiểu biết về các biện pháp hành động thiết thực và hỗ trợ cộng đồng, Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc (FAO) đã phát hành báo cáo “Phát thải khí methane trong hệ thống chăn nuôi và lúa gạo: Nguyên nhân, đo lường, giảm thiểu và đánh giá”.

Báo cáo được thực hiện bởi một nhóm gồm 54 nhà khoa học và chuyên gia quốc tế của Đối tác Đánh giá và Hiệu suất Môi trường Chăn nuôi (LEAP), mà FAO đã tổ chức từ năm 2012. Nội dung báo cáo cung cấp một cái nhìn toàn diện và phân tích về lượng khí methane trong hệ thống chăn nuôi và lúa gạo. Báo cáo không chỉ chỉ ra nguồn gốc và nơi lưu trữ khí methane, mà còn mô tả cách đo lường lượng khí thải, đồng thời trình bày một loạt các chiến lược giảm thiểu và đánh giá các dữ liệu có thể sử dụng để đo lường cả lượng khí thải và mức độ giảm thiểu trong hệ thống khí hậu.

Trong bối cảnh chuyển đổi khí hậu, Phó Tổng giám đốc FAO đã nhấn mạnh rằng báo cáo này tăng cường những nỗ lực của các quốc gia và các bên liên quan trong việc giảm phát thải khí methane, đồng thời hướng tới việc phát triển hệ thống nông sản thực phẩm hiệu quả, toàn diện, linh hoạt, ít phát thải và bền vững hơn.

Khí methane chiếm khoảng 20% tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu và có khả năng giữ nhiệt cao gấp 25 lần so với carbon dioxide tại lớp bức xạ trong khí quyển. Sự đóng góp của lượng khí thải methane từ hoạt động con người đang làm tăng thêm khoảng 0,5 độ C vào sự nóng lên toàn cầu được ghi nhận, từ đó làm cho việc giảm lượng khí thải này trở nên cực kỳ quan trọng trong việc thực hiện Thỏa thuận Paris. Báo cáo này được xây dựng nhằm hỗ trợ các hệ thống nông nghiệp thực phẩm tham gia vào Cam kết Mê-tan Toàn cầu, một sáng kiến không ràng buộc được hơn 150 quốc gia đồng ý nhằm giảm 30% lượng khí thải methane so với mức năm 2020 vào năm 2030, từ đó giúp tránh được sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu vượt quá mức 0,2 độ C vào năm 2050.

Ngoài ra, dự án này cũng phù hợp với Chiến lược của FAO về Biến đổi Khí hậu và Khung Chiến lược 2022-2031, cả hai đều hướng tới mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính thông qua việc kết hợp toàn diện của Bốn Tốt, bao gồm: Sản xuất tốt hơn, Dinh dưỡng tốt hơn, Môi trường tốt hơn và Cuộc sống tốt hơn.

Ngoài các hệ thống thực phẩm nông nghiệp, một số hoạt động khác của con người cũng góp phần vào việc phát thải khí methane, bao gồm bãi chôn lấp, hệ thống dầu khí tự nhiên, mỏ than, và nhiều nguồn khác. Khoảng 32% lượng khí thải methane do con người tạo ra trên toàn cầu đến từ quá trình vi sinh vật trong quá trình lên men trong dạ dày của động vật nhai lại và hệ thống quản lý phân, trong khi 8% khác đến từ hoạt động trồng trọt lúa.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
Báo cáo chính sách NÔNG NGHIỆP 360

Báo cáo thị trường cà phê tháng 2/2023

I . Thị trường cà phê thế giới.

1. Sản xuất

Lo ngại về thiếu hụt nguồn cung cà phê do tình hình thời tiết không thuận lợi tại Brazil cùng báo cáo tồn kho giảm đã tạo ra tác động tích cực đáng kể lên thị trường cà phê toàn cầu trong tháng 2. Giá cà phê arabica trên sàn New York đã phục hồi gần đây, nhưng vẫn thấp hơn thị trường nội địa Brazil. Lượng tồn kho đã giảm sau hai vụ mùa yếu kém, khiến người nông dân không muốn bán ra ở mức giá hiện tại. Do đó, các thương nhân quốc tế đang tìm kiếm nguồn cung cấp cà phê với giá gần với giá tương lai trên sàn New York.

Theo Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO), dự trữ cà phê arabica trên sàn New York đã giảm 5%, nhưng dự trữ robusta tăng 13,8%. Reuters dự đoán thiếu hụt cung cà phê thế giới có thể khoảng 4,15 triệu bao. Xuất khẩu cà phê toàn cầu giảm 2,8% trong 3 tháng đầu niên vụ hiện tại. ICO dự báo sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2022-2023 giảm 2,1%, trong khi tiêu thụ dự kiến ​​tăng 3,3%. Sản lượng niên vụ cà phê của Việt Nam giảm 10-15% do người dân chuyển đổi cây trồng.

Ở Colombia, tổng sản lượng cà phê giảm 10% trong 12 tháng tính đến tháng 1/2023. Tại Peru, thời tiết không thuận lợi và tình hình chính trị bất ổn đang ảnh hưởng đến xuất khẩu cà phê.

2. Tiêu thụ

ICO cho biết xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 1 giảm 10,2% so với tháng trước và giảm 13,9% so với cùng kỳ năm 2022. Trong 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023, xuất khẩu cà phê toàn cầu giảm 6% so với cùng kỳ niên vụ trước, xuống còn 39,9 triệu bao. Cà phê nhân xanh chiếm gần 90% xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 1, với khối lượng đạt 10,2 triệu bao, giảm 15% so với cùng kỳ năm trước. Trong giai đoạn từ tháng 10/2022 đến tháng 1/2023, lượng xuất khẩu cà phê nhân xanh đạt 36 triệu bao, giảm 5,4% so với cùng kỳ.

Xuất khẩu cà phê nhân xanh arabica Brazil giảm 17% trong tháng 1 và giảm 0,1% sau 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023, xuống 13,1 triệu bao. Các lô hàng arabica khác giảm 18% trong tháng 1 và đạt 5,1 triệu bao sau 4 tháng đầu niên vụ cà phê 2022-2023, giảm 18%.

Xuất khẩu cà phê arabica Colombia giảm mạnh nhất với 20,9% trong tháng 1 và 15,9% trong 4 tháng đầu niên vụ hiện tại, xuống 3,7 triệu bao.Trong tháng 1, lượng xuất khẩu cà phê robusta giảm 10,1%, trong khi trong 4 tháng đầu của niên vụ 2022-2023 giảm 1,4%, đạt gần 14 triệu bao.

bieu-do-motTrong tháng 1 vừa qua, lượng xuất khẩu cà phê hòa tan giảm 3%, chỉ còn đạt 0,9 triệu bao. Tính đến sau 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023, xuất khẩu cà phê hòa tan trên thế giới đã giảm 11,2% so với niên vụ trước đó, chiếm khoảng 10,1% trong tổng lượng xuất khẩu cà phê toàn cầu. Tương tự, xuất khẩu cà phê rang xay cũng giảm 9% trong tháng 1, chỉ đạt 61.683 bao. Tính đến sau 4 tháng, khối lượng cà phê rang xay được xuất khẩu trên toàn cầu đã giảm xuống còn 278.977 bao so với cùng kỳ năm trước.

bieu-dp-2

Trong tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê khu vực Nam Mỹ giảm 19,9% xuống 3,9 triệu bao, do sự giảm của Brazil, Colombia và Peru lần lượt là 16%, 18,8% và 63,9%. Colombia chịu ảnh hưởng từ hiện tượng La Niña, trong khi Peru gặp khó khăn do thời tiết và tình hình chính trị không ổn định. Sự sụt giảm ở Peru cũng có liên quan đến việc sản lượng xuất khẩu tháng 1/2022 tăng đột biến, vượt qua mức trung bình của 6 năm qua.bieu-do-3

 

Trong tháng 1, khu vực châu Á và châu Đại Dương ghi nhận giảm xuất khẩu cà phê 17,2% và 3,3% trong 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023. Việt Nam, Ấn Độ và Indonesia, các quốc gia hàng đầu trong khu vực, đều trải qua sự sụt giảm đáng kể. Ngược lại, khu vực châu Phi đã tăng trưởng 19,5% và 1,4% tương ứng trong tháng 1 và 4 tháng đầu niên vụ, với Uganda dẫn đầu với sự phục hồi sau chuỗi suy giảm kéo dài 12 tháng. Ở khu vực Trung Mỹ và Mexico, xuất khẩu cà phê giảm 5% trong tháng 1 và 11,4% trong 4 tháng, nhưng Honduras và Mexico đều ghi nhận xu hướng tăng do nguồn cung dồi dào và cao điểm thu hoạch.

3. Diễn biến giá

Chỉ số giá cà phê tổng hợp (I-CIP) theo dõi bởi ICO đã tăng 11,4% trong tháng 2, đạt mức bình quân 174,8 UScent/pound, với mức giá dao động từ 169,5 đến 183,9 UScent/pound.

bieu-do-4

Trong tháng 2, giá cà phê robusta và arabica tiếp tục tăng mạnh do lo ngại về thiếu hụt nguồn cung trong ngắn hạn. Đồng thời, việc đồng real tăng giá trị so với đồng USD ở đầu năm đã giới hạn người trồng cà phê tại Brazil từ việc bán ra, đồng thời đẩy giá cà phê tăng cao hơn. Đến ngày 28/2, giá cà phê robusta giao trong tháng 5 đã tăng 10% so với tháng trước, lên mức 2.121 USD/tấn.

B-do-5

Giá cà phê arabica giao trong tháng 5 cũng tăng 15% lên 190 UScents/pound.

B-D-64. Dự báo

Dự kiến giá cà phê sẽ giảm do thông tin tiêu cực từ thị trường tài chính và Fed thì tăng lãi suất liên tục. Sự sụp đổ của ngân hàng SVB cũng gây áp lực tiêu cực đối với tâm lý người mua. Mặt khác, dự kiến cung cà phê từ Indonesia sẽ tăng do vụ thu hoạch mới, trong khi xuất khẩu của nhiều quốc gia đang giảm, giúp giảm đà tăng giá. Tuy nhiên, trong tương lai, tình trạng thiếu hụt cà phê có thể làm tăng giá do nhiều quốc gia gặp khó khăn với nguồn cung.

II . Chuyển biến thị trường cà phê Việt

1. Sản xuất 

Dự báo sản lượng cà phê cho niên vụ 2022-2023 sẽ giảm khoảng 10-15% so với niên vụ trước, xuống khoảng 1,47 triệu tấn. Nguyên nhân chính là do diện tích trồng cà phê giảm, khi người dân chuyển sang trồng các cây trồng khác. Hiện diện tích cà phê của Việt Nam vào năm 2022 là 710.000 ha, với sản lượng hơn 1,84 triệu tấn. Các tỉnh Tây Nguyên chiếm phần lớn về diện tích và sản lượng cà phê của cả nước, với Gia Lai đang hướng tới ổn định diện tích 100.000 ha, áp dụng công nghệ tưới tiêu tiên tiến. Đắk Nông, tỉnh chiếm 23% diện tích cà phê cả nước, ghi nhận tổng diện tích 139.932 ha và tổng sản lượng 356.612 tấn cà phê vào cuối năm 2022. Tuy nhiên, ngành cà phê Việt Nam đối diện nhiều thách thức như cân cầu cà phê, sự thịnh vượng của người trồng, trách nhiệm giải trình, tiêu dùng nội địa, biến đổi khí hậu và quy định mới từ các nước nhập khẩu. Đắk Lắk, thủ phủ cà phê của Việt Nam, đang phải đối mặt với các vấn đề như biến đổi khí hậu, diện tích sản xuất hạn chế, khai thác đất quá mức, và thiếu chế biến sâu.

2. Tiêu thụ 

Theo Tổng cục Hải quan, trong tháng 2, Việt Nam xuất khẩu cà phê đạt 200.056 tấn, trị giá 435 triệu USD, tăng 40% so với tháng trước. Tuy nhiên, trong 2 tháng đầu năm, xuất khẩu cà phê giảm 7,8% về lượng và 9,5% về trị giá, đạt 342.352 tấn và 745,3 triệu USD. Giá xuất khẩu bình quân của cà phê trong 2 tháng đầu năm là 2.177 USD/tấn, giảm nhẹ 2% so với cùng kỳ năm trước.  

B-D-7Mặc dù giá cà phê đang ở mức cao, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang nhiều thị trường lớn vẫn duy trì xu hướng tích cực. Liên minh châu Âu (EU) tiếp tục là thị trường tiêu thụ lớn nhất của Việt Nam, chiếm 41% khối lượng xuất khẩu. Trong đó, xuất khẩu sang nhiều nước trong EU tăng mạnh, nhưng Bỉ lại ghi nhận sự giảm mạnh 42,9%. Ngoài ra, xuất khẩu cà phê sang Mỹ, Nga, Algeria cũng đều tăng đáng kể, cùng với sự gia tăng đáng kể trong việc nhập khẩu cà phê từ Mexico, Indonesia và Ấn Độ.

B-d-8

3. Diễn biến giá 

Trong 2 tháng đầu năm, giá cà phê tại Việt Nam tăng mạnh khoảng 20%, lên mức khoảng 46.700 – 47.100 đồng/kg, đạt mức cao nhất trong 5 tháng trở lại đây và chỉ thấp hơn đỉnh cao 50.700 đồng/kg vào tháng 8 năm trước.

B-d-9

Tình hình thị trường cà phê tăng giá chủ yếu do ảnh hưởng tiêu cực từ sản xuất cà phê tại Brazil do thời tiết xấu. Các nhà đầu tư lớn trên thế giới đã tập trung mua vào để giữ hàng, góp phần đẩy giá cà phê thế giới lên cao hơn và giá cà phê trong nước cũng tăng theo.

4. Dự báo

Trong tháng 2, xuất khẩu cà phê của Việt Nam tăng so với cùng kỳ năm trước, đạt 342.352 tấn, trị giá 745,3 triệu USD, giảm 7,8% về lượng và 9,5% về trị giá. Giá xuất khẩu bình quân cà phê trong 2 tháng đạt 2.177 USD/tấn, giảm nhẹ 2% so với cùng kỳ năm trước. Tình hình này cho thấy nhu cầu cà phê trong ngắn hạn đang yếu, tuy nhiên, doanh nghiệp xuất khẩu lạc quan về tình hình dài hạn, với dự đoán nhu cầu tăng mạnh, đặc biệt nếu tình hình thời tiết xấu tiếp tục ảnh hưởng tới thị trường Brazil.

5. Tăng trưởng nhập khẩu cà phê Việt Nam tại Pháp

Trong 11 tháng năm 2022, Pháp đã tăng nhập khẩu cà phê từ Việt Nam lên 24,5 nghìn tấn, trị giá 58,79 triệu EUR (tương đương 62,11 triệu USD), tăng 23,6% về lượng và 107,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. 

b-d-10

Trong 11 tháng năm 2022, thị phần cà phê của Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu của Pháp từ thế giới đã tăng lên 6,97%, so với 5,22% trong cùng kỳ năm 2021. Lượng nhập khẩu nội khối giảm 5,8% về lượng, nhưng tăng 31,2% về trị giá, trong khi lượng nhập khẩu từ các nước bên ngoài giảm 9% về lượng, nhưng tăng 7,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Giá nhập khẩu bình quân cà phê của Pháp trong 11 tháng năm 2022 đạt mức 7.919 EUR/tấn, tăng 26,2% so với cùng kỳ năm 2021.

BĐ-11

III . Hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành

  • Cổ phiếu CFV của CTCP Cà phê Thắng Lợi: đã tăng trần liên tục trong 14 phiên, đẩy giá từ 8.600 đồng/cp lên 67.600 đồng/cp, trước khi điều chỉnh về 63.700 đồng/cp vào ngày 13/3. Đây không phải lần đầu tiên cổ phiếu này gây chú ý với việc tăng mạnh, khi năm 2022 đã tăng 21 lần chỉ trong một tháng. công ty đã phải lên tiếng về việc tăng giá cổ phiếu, bác bỏ việc có sự can thiệp từ các cá nhân lợi dụng lỗ hổng thị trường.
  • Giám đốc Công ty Cà phê Thuận An, ông Lê Văn Một, đã mua vào 1.700 cổ phiếu TAN để tăng tỷ lệ sở hữu lên 0,11% vốn điều lệ vào ngày 16/2. Ông Một cũng đăng ký mua thêm 174.900 cổ phiếu TAN thông qua thỏa thuận và khớp lệnh từ 2/3 đến 24/3. Trong khi đó, Kế toán trưởng, bà Lê Thị Định, dự kiến bán ra 1.700 cổ phiếu vào thời điểm 15/2 – 16/3 để giải quyết tài chính cá nhân. Ngày 16/3 cũng là ngày cuối cùng để đăng ký tham dự ĐHĐCĐ thường niên năm 2023 của công ty tại tỉnh Đắk Nông. Thời gian và tài liệu họp vẫn chưa được công bố.

 

Cà phê Petec (Mã: PCF) sẽ tổ chức ĐHĐCĐ thường niên năm 2023 vào ngày 27/3 tại quận 3, TP HCM. Đơn từ nhiệm của ông Nguyễn Thanh Hải, Thành viên HĐQT, đã được công ty nhận được trước thềm ĐHĐCĐ.

CTCP VinaCafé Biên Hòa (Mã: VCF) dự định tổ chức ĐHĐCĐ thường niên năm 2023 trong tháng 4. Ngày đăng ký cuối cùng là 8/3, ngày giao dịch không hưởng quyền là 7/3.

Cà phê Gia Lai (Mã: FGL) sẽ tổ chức ĐHĐCĐ thường niên trong tháng 4 tại tỉnh Gia Lai. Ngày chốt danh sách cổ đông tham dự là 9/3, ngày giao dịch không hưởng quyền là 8/3. Công ty dự kiến trình cổ đông kế hoạch kinh doanh năm 2023 và bầu mới nhân sự cho nhiệm kỳ 2023 – 2028.

Cà phê Phước An (Mã: CPA) dự kiến tổ chức ĐHĐCĐ thường niên năm 2023 vào ngày 21/4 tại Đắk Lắk. Ngày đăng ký cuối cùng để chốt quyền tham dự là 24/3, ngày giao dịch không hưởng quyền là 23/3.

VI . Sự kiện ảnh hưởng đến thị trường cà phê

Tác động của quyết định tăng lãi suất của Fed đến thị trường cà phê

Theo dự báo, cuộc họp dự kiến của Fed trong tuần 3 tháng 3 sẽ không có tăng lãi suất do sự sụp đổ của Ngân hàng Thung lũng Silicon (SVB). Dự kiến này từ Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs cho thấy tâm lý của thị trường có thể được giải toả và giá cà phê có thể nhận động lực tăng trưởng nếu không có sự điều chỉnh lãi suất từ Fed. Tuy nhiên, nếu lãi suất vẫn tiếp tục tăng, thị trường cà phê có thể phải đối mặt với áp lực tiếp tục trong tương lai.

Nguồn: VietnamBiz

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Việt Nam cảnh báo về tình trạng dư thừa sản lượng sầu riêng trong nước.

Theo báo cáo gần đây của tờ báo trực tuyến VnExpress, diện tích trồng sầu riêng tại Việt Nam đã mở rộng lên đến 131.000 hecta, với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm trung bình là 24,5%, cao nhất trong số các loại cây chính của đất nước. Mặc dù bắt đầu trồng muộn hơn so với các vùng khác, khu vực Tây Nguyên đã vươn lên trở thành khu vực trồng sầu riêng lớn nhất của đất nước với gần 70.000 hecta, tiếp theo là Đồng Bằng Sông Cửu Long, khu vực Đông Nam Bộ và vùng ven biển miền Trung.

Thách thức mở rộng nhanh chóng

Ông Vũ Đức Côn, phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Đắk Lắk thuộc vùng Tây Nguyên, cho biết diện tích trồng sầu riêng của tỉnh hiện đã vượt quá 28.600 hecta và dự kiến sẽ nhanh chóng đạt đến 30.000 hecta trong những năm tới. Sự mở rộng nhanh chóng đáng kể này đã gây ra lo ngại về việc phát triển bền vững của ngành công nghiệp sầu riêng tại Đắk Lắk.

Sự phát triển đáng lo ngại tại Đắk Lắk và Lâm Đồng

Các cơ quan chức năng ở tỉnh kế cận Lâm Đồng cũng đã đưa ra cảnh báo tới các nông dân với cùng lý do. Diện tích trồng sầu riêng của tỉnh này hiện đã đạt khoảng 19.700 hecta, tăng hơn 6.000 hecta so với năm 2021. Dự kiến Lâm Đồng sẽ sản xuất 115.000 tấn sầu riêng trong năm nay và đạt 225.000 tấn mỗi năm vào năm 2027.

mui-sau-rieng

Ở các vùng phía Tây của Việt Nam, nhiều hecta lúa và khu vườn dứa đã được thay thế bằng vườn sầu riêng. Với tất cả sự tăng trưởng nhanh chóng này, chính phủ Việt Nam đã trở nên lo ngại về tình trạng cung cấp sầu riêng có thể quá nhiều. Nguyễn Như Cường, người đứng đầu đơn vị trồng trọt thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đã cảnh báo các nông dân rằng sự mở rộng không kiểm soát và quy mô lớn gần đây có thể dẫn đến các kết quả không thể dự đoán, bao gồm tình trạng cung cấp quá nhiều. Một điểm đáng quan tâm khác là tác động tiềm năng của việc trồng sầu riêng trên đất không phù hợp, có thể làm giảm đáng kể cả năng suất và chất lượng trái cây, gây hại đến uy tín quốc tế của sầu riêng Việt Nam.

Những thách thức trong ngành sầu riêng tại Việt Nam

Hơn nữa, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã nhấn mạnh những thách thức khác trong ngành sầu riêng, bao gồm mối liên kết yếu ớt giữa nông dân và thương nhân, việc xây dựng thương hiệu chưa tối ưu, lao động không đủ trình độ, cơ sở hạ tầng thiếu và cạnh tranh không công bằng.

sau-rieng-tai-vuon

Việt Nam đã đạt được sự cho phép chính thức xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc vào tháng 7 năm 2022. Xuất khẩu nhanh chóng tăng lên, đạt mức 1,5 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm 2023. Đầu tháng 2 năm nay, vào mùa không phải mùa vụ sầu riêng của Việt Nam, giá cửa hàng nông sản tăng lên mức cao kỷ lục từ 150.000 đến 170.000 đồng Việt Nam (6,11-6,92 USD) mỗi kilogram. Hiện nay, tùy thuộc vào loại và chất lượng, giá cửa hàng nông sản của sầu riêng Việt Nam dao động từ 50.000 đến 95.000 đồng (2,04-3,87 USD) mỗi kilogram, vẫn gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái.

Nguồn: Producereport

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Tuần lễ quảng bá ẩm thực Việt Nam với cơ quan ngoại giao quốc tế

Sáng ngày 27/10 tại Hà Nội, Trung tâm Xúc tiến Thương mại Nông nghiệp, Bộ NN&PTNT đã tổ chức lễ khai mạc Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam với các đại sứ quán nước ngoài tại Việt Nam.san-pham-nuoc-mamĐại diện tham dự lễ khai mạc bao gồm Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền El Salvador tại Việt Nam cùng với các đại diện từ các Đại sứ quán và tham tán nước ngoài tại Việt Nam, bao gồm Vương quốc Anh, Nga, Algeria, Pa-na-ma, Be-la-rut, Indonesia và Nam Phi.

Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam với hệ thống cơ quan ngoại giao và tham tán nước ngoài tại Việt Nam đánh dấu một sự kiện quan trọng trong khuôn khổ chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2023. Chương trình tập trung vào các sản phẩm nước mắm và món ăn đặc trưng kết hợp với nước mắm, đặc biệt là mắm truyền thống và các món ẩm thực đặc trưng từ các vùng miền sử dụng nước mắm. Nhiệm vụ của chương trình là quảng bá và tuyên truyền về lịch sử, câu chuyện sản phẩm và quy trình sản xuất của các sản phẩm nước mắm và ẩm thực từ nước mắm Việt Nam, nhằm nâng cao nhận thức về văn hóa và truyền thống đặc biệt của Việt Nam đến khách du lịch trong và ngoài nước. Tuần lễ cũng đóng góp vào việc thúc đẩy thương mại và tạo liên kết trong việc cung cấp và tiêu thụ sản phẩm nước mắm truyền thống và ẩm thực từ nước mắm.

giao-luu-quoc-teVới diện tích trên 1000m2, Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam đã thiết lập nhiều không gian chính để trưng bày và giới thiệu các sản phẩm nước mắm truyền thống cùng gia vị Việt Nam. Sự kiện cũng bao gồm không gian dành riêng để giới thiệu về ẩm thực cùng các món ăn đặc trưng từ các địa phương, liên kết chặt chẽ với sản phẩm nước mắm truyền thống.

Theo Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại nông nghiệp, ông Nguyễn Minh Tiến, trong khuôn khổ của Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam, nhiều hoạt động đã được tổ chức, bao gồm các buổi toạ đàm và giới thiệu về văn hóa nước mắm và ẩm thực Việt Nam với các đại diện ngoại giao và tham tán nước ngoài tại Việt Nam. Sự kiện cũng bao gồm các talkshow hỏi đáp giữa người tiêu dùng và các chuyên gia, doanh nghiệp, và hợp tác xã về chủ đề nước mắm từ xưa đến nay. Ngoài ra, việc truyền tải và bán hàng cũng được thực hiện thông qua việc livestream quảng bá sản phẩm nước mắm và mắm truyền thống trên nền tảng TikTok Shop.

gioi-thieu-ve-truyen-thong

Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã ra đời từ năm 2018 đến nay, đã thúc đẩy tiềm năng của đất đai và sản vật, tận dụng lợi thế so sánh, đặc biệt là giá trị văn hóa của từng vùng miền. Nhiều sản phẩm OCOP đã thành công trong việc truyền tải những câu chuyện sản phẩm mang tính nhân văn của vùng, từng miền, góp phần thúc đẩy hướng đi về phát triển kinh tế và bảo tồn các nghề truyền thống và giá trị văn hóa đặc trưng.

Thông qua các hoạt động này, việc kết hợp quảng bá và kết nối tiêu thụ nông sản của Việt Nam thông qua văn hoá và ẩm thực sẽ tạo ra một hướng điệu quả và để lại ấn tượng mạnh mẽ đối với người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Thúc đẩy đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn tại vùng ĐBSCL

Vào ngày 30/10, tại thành phố Cần Thơ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) đã tổ chức một Hội nghị nhằm thúc đẩy việc đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tại vùng ĐBSCL. Tham dự và chủ trì hội nghị là Thứ trưởng Trần Thanh Nam.

Hoi-nghi

Hội nghị cũng thu hút sự tham gia của đại diện từ các bộ, ban, ngành Trung ương cũng như địa phương tại các tỉnh trong vùng ĐBSCL, cùng với đại diện từ một số tổ chức quốc tế, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp, nhà đầu tư và các chuyên gia chuyên về nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, vùng ĐBSCL có vai trò quan trọng trong kinh tế nông nghiệp của cả nước, đóng góp trên 33% tổng sản phẩm quốc nội của ngành nông nghiệp và 30% GDP của khu vực. ĐBSCL cũng dẫn đầu cả nước về sản lượng lúa gạo, thủy sản và trái cây. Nơi này đóng góp 56% sản lượng lúa gạo (tương đương 24,5 triệu tấn), 98% sản lượng cá tra (1,41 triệu tấn) và 60% sản lượng trái cây cả nước (4,3 triệu tấn), cũng như chiếm 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% lượng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.

Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, vùng ĐBSCL vẫn đối mặt với nhiều thách thức trong việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Cơ sở hạ tầng vẫn chưa đồng bộ, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông, thủy lợi, điện và thông tin liên lạc. Trình độ sản xuất của nông dân vẫn còn thấp, và năng suất lao động vẫn chưa cao. Ngoài ra, cơ chế và chính sách khuyến khích đầu tư cũng chưa được đồng bộ và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

Để giải quyết các khó khăn trên, Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích để thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tại vùng ĐBSCL. Nhờ những chính sách này, vào năm 2023, tổng vốn đầu tư vào nông nghiệp tại ĐBSCL đạt khoảng 100.000 tỉ đồng, tăng 15% so với năm 2022. Một số dự án đầu tư lớn bao gồm một nhà máy chế biến gạo với công suất 100.000 tấn mỗi năm tại tỉnh Long An (vốn đầu tư 1.000 tỉ đồng); dự án trồng và chế biến trái cây áp dụng công nghệ cao tại tỉnh Tiền Giang (vốn đầu tư 500 tỉ đồng); và dự án nuôi thủy sản áp dụng công nghệ cao tại tỉnh Cà Mau (vốn đầu tư 200 tỉ đồng).

Tại hội nghị, các đại biểu đã thảo luận và trình bày về chính sách khuyến khích thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn tại ĐBSCL. Họ cũng đề cập đến thách thức và cơ hội liên quan đến việc thúc đẩy đầu tư vào ngành nuôi trồng thủy sản trong vùng ĐBSCL trong bối cảnh hiện tại, cũng như xu hướng đầu tư theo hướng bền vững vào nông nghiệp tại khu vực này.

Các ý kiến tại hội nghị cho thấy, để thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn tại ĐBSCL, cần tập trung vào việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Đây được xem là yếu tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc sản xuất và kinh doanh. Các cấp, ngành và địa phương cần hợp tác để đầu tư xây dựng và nâng cấp hệ thống giao thông, thủy lợi, điện và thông tin liên lạc, đặc biệt là tại các khu, cụm công nghiệp nông nghiệp và thủy sản. Đồng thời, cần nâng cao trình độ sản xuất của nông dân và ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất. Các địa phương cũng cần tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng và minh bạch để thu hút cả các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.

Trong bài phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Trần Thanh Nam đã đề cập đến một số vấn đề cụ thể mà vùng ĐBSCL cần tập trung nghiên cứu và thực hiện. Ông nhấn mạnh về việc tận dụng tối đa tiềm năng của các sản phẩm nông nghiệp từ cây ăn trái, lúa gạo và thủy sản. Thứ trưởng cũng khuyến khích các tỉnh trong vùng triển khai nhanh đề án Phát triển bền vững trên diện tích 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, kết hợp việc giảm phát thải với tăng trưởng xanh tại ĐBSCL, đặc biệt trong vụ lúa đông xuân năm 2023-2023, với diện tích 180.000 ha. Ông cũng nhấn mạnh về việc các doanh nghiệp trong ngành lúa gạo cần chia sẻ lợi ích với nông dân thông qua việc tăng cường liên kết với họ và các hợp tác xã.

Bên cạnh đó, ông cũng đề xuất việc tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng và lĩnh vực logistics, đặc biệt là tại các khu vực tập trung nguyên liệu lớn. Trong đó, ông đề cập đến việc xây dựng kho mát để phân loại, bảo quản và sơ chế nhằm nâng cao chất lượng và ổn định giá thành, từ đó tăng cường sức cạnh tranh cho nông sản xuất khẩu và nâng cao chuỗi giá trị trong ngành hàng này.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
Kiến thức nông nghiệp NÔNG NGHIỆP 360

Mô hình canh tác chè hữu cơ, liên kết chuỗi giá trị ở miền Bắc.

Theo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, trong thời gian gần đây, các dự án khuyến nông Trung ương đã tập trung vào việc sử dụng giống chè mới có ưu điểm và tiềm năng, thúc đẩy sản xuất chè hướng hữu cơ, tạo ra sản phẩm chè an toàn, có khả năng truy xuất nguồn gốc và đạt được chứng nhận về chất lượng, giúp cải thiện sự cạnh tranh trên thị trường nội địa và quốc tế.

tra-xanh

Dự án cải thiện quy trình trồng chè hữu cơ và liên kết giá trị ở Bắc Bộ đã được triển khai trên diện tích 32ha tại bốn tỉnh bao gồm Hà Giang (xã Xuân Minh, huyện Quang Bình), Tuyên Quang (xã Hồng Thái, huyện Na Hang), Lai Châu (xã Mường Khoa, huyện Tân Uyên) và Nghệ An (xã Huồi Tụ, huyện Kỳ Sơn) do Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đảm trách. Dự án đã được triển khai từ năm 2021 đến 2023. Dự án tuân theo quy trình kỹ thuật trồng và thâm canh chè theo tiêu chuẩn hữu cơ được quy định bởi Quyết định số 288/QĐ/MNPB-KH ngày 3/4/2020.

Dự án đã xây dựng thành công bốn mô hình thâm canh chè hữu cơ và liên kết chuỗi giá trị tại bốn tỉnh, gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu và Nghệ An, trên tổng diện tích 32 ha, với sự triển khai 8 ha mỗi năm cho mỗi tỉnh. Dự án đã được thực hiện liên tục trong ba năm tại mỗi mô hình. Ngoài ra, đã xây dựng bốn mô hình quản lý sản xuất và kinh doanh, cũng như liên kết tiêu thụ sản phẩm giữa cộng đồng nông dân và các doanh nghiệp.

Sau một năm thực hiện, theo quá trình theo dõi và đánh giá cũng như so sánh về tình trạng sinh trưởng và năng suất, mô hình thâm canh sản xuất chè theo tiêu chuẩn hữu cơ trong dự án đã cho thấy những kết quả đa dạng tại các tỉnh Lai Châu, Tuyên Quang, Hà Giang và Nghệ An. Tại Lai Châu và Tuyên Quang, năng suất chè của mô hình đã giảm so với sản xuất đại trà, với mức giảm lần lượt là 28,12% (từ 8,2 tấn/ha xuống còn 6,4 tấn/ha) và 23,64% (từ 6,8 tấn/hạ xuống còn 5,5 tấn/ha). Ngược lại, tại Hà Giang và Nghệ An, năng suất chè trong mô hình đã tăng lần lượt là 15,95% (từ 4,20 tấn/ha lên 4,87 tấn/ha) và 11,35% (từ 3,70 tấn/ha lên 4,12 tấn/ha). Nguyên nhân chủ yếu là do phương pháp trồng trọt trước đây tại Hà Giang và Nghệ An đã tạo ra cơ sở tốt cho sự tăng trưởng khi được áp dụng bổ sung dinh dưỡng từ phương pháp hữu cơ. Trái ngược, tại Tuyên Quang và Lai Châu, các hộ tham gia mô hình đã sử dụng phân bón hóa học trước đó để tăng năng suất, khi chuyển sang hữu cơ, chỉ sử dụng phân bón vi sinh, năng suất đã giảm đi.

Hiện tại, tất cả sản phẩm chè từ mô hình đã được tiêu thụ với giá bán trung bình tăng 53,84% so với sản phẩm chè truyền thống. Tổng sản lượng chè tươi thu được từ 32 ha mô hình dự án là 167,12 tấn, đem lại doanh thu tăng lên trong khoảng 20,08% đến 49,08%.

Tính đến thời điểm hiện tại, các tổ chức chứng nhận đang tiến hành các bước đánh giá và giám sát mô hình để chuẩn bị cho việc cấp chứng nhận sản phẩm chè từ mô hình/tỉnh theo tiêu chuẩn hữu cơ vào năm 2023.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

FAO: Ước Tính Tác Động Thiên Tai Đối Với Nông Nghiệp

Theo báo cáo mới của FAO, ngành trồng trọt và chăn nuôi trên toàn cầu đã mất khoảng 3,8 nghìn tỷ USD trong vòng 30 năm qua do tác động của thiên tai.

bien-doi-khi-hau

Báo cáo gần đây từ Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO) cho biết trong 30 năm qua, sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi trị giá khoảng 3,8 nghìn tỷ USD đã bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Điều này tương đương với khoảng 123 tỷ USD mỗi năm, hay 5% tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp toàn cầu hàng năm (GDP).

Báo cáo này, mang tựa đề “Tác động của Thiên tai đối với Nông nghiệp và An ninh Lương thực,” cung cấp ước tính toàn cầu đầu tiên về tác động của thiên tai đối với sản xuất nông nghiệp, tập trung vào việc canh tác và chăn nuôi. Báo cáo nhấn mạnh rằng con số này có thể cao hơn nếu có hệ thống dữ liệu về tổn thất trong ngành thủy sản, nuôi trồng thủy sản và lâm nghiệp. Do đó, báo cáo đề xuất cần cải thiện dữ liệu và thông tin về tác động của thiên tai đối với tất cả các ngành nông nghiệp để xây dựng các hệ thống dữ liệu có thể hỗ trợ việc ra quyết định và thực hiện các biện pháp hiệu quả.

Theo báo cáo, trong ba thập kỷ qua, thiên tai – được xác định là những rối loạn nghiêm trọng trong hoạt động của một cộng đồng hoặc xã hội – đã gây ra tổn thất cao nhất cho các quốc gia có thu nhập trung bình thấp và thấp, lên đến 15% GDP nông nghiệp. Thiên tai cũng ảnh hưởng đáng kể đến các quốc đảo nhỏ đang phát triển (SIDS), với tổn thất gần 7% GDP nông nghiệp.

Tổn thất theo nhóm sản phẩm trong nông nghiệp

Theo báo cáo, tổn thất liên quan đến các loại sản phẩm nông nghiệp chính đang có xu hướng gia tăng. Cụ thể, trong ba thập kỷ qua, sản lượng ngũ cốc đã bị mất trung bình 69 triệu tấn mỗi năm, tương đương với sản lượng ngũ cốc của Pháp vào năm 2021. Đối với trái cây, rau quả và mía, mức thiệt hại trung bình hàng năm là 40 triệu tấn. Đối với rau quả, tổn thất tương đương với sản lượng rau quả của Nhật Bản và Việt Nam năm 2021.

Ngoài ra, ước tính thiệt hại đối với mặt hàng thịt, sản phẩm sữa và trứng trung bình đạt 16 triệu tấn mỗi năm, tương đương với sản lượng thịt, sữa, trứng của Mexico và Ấn Độ năm 2021.

Sự khác biệt về tác động của khí hậu theo khu vực

Báo cáo FAO đã chỉ ra sự khác biệt rõ rệt trong tác động của thiên tai đối với các khu vực và quốc gia khác nhau. Châu Á, mặc dù chịu tổn thất kinh tế nông nghiệp lớn nhất, nhưng tổn thất này chỉ chiếm 4% của giá trị gia tăng nông nghiệp. Trong khi đó, ở châu Phi, tổn thất tương đối lớn hơn, đạt gần 8% của giá trị gia tăng nông nghiệp. Sự khác biệt này còn tăng cao hơn khi so sánh các vùng khác nhau.

Mặc dù các nước thuộc các nhóm thu nhập khác nhau có mức thiệt hại khác nhau, các nước thu nhập thấp, đặc biệt là các quốc gia đảo quốc nhỏ (SIDS), thường chịu tỷ lệ thiệt hại cao nhất đối với giá trị gia tăng nông nghiệp.

Tác động đồng thời của các yếu tố thảm họa

Báo cáo của FAO nhấn mạnh rằng các sự kiện thiên tai đang trở nên ngày càng phổ biến và nghiêm trọng hơn. Trong vòng 20 năm qua, số lượng sự kiện thiên tai đã tăng từ 100 mỗi năm vào những năm 1970 lên tới khoảng 400 mỗi năm trên toàn thế giới. Điều đáng lo ngại không chỉ là tần suất tăng, mà cường độ và sự phức tạp của các sự kiện thiên tai cũng ngày càng gia tăng. Báo cáo cũng dự đoán rằng tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn trong tương lai, do các thảm họa liên quan đến biến đổi khí hậu dự kiến ​​sẽ làm gia tăng lỗ hổng xã hội và môi trường sống hiện có.

Báo cáo chỉ ra rằng khi các mối nguy hiểm này xuất hiện, chúng có thể gây ra tác động không chỉ trong một lĩnh vực, mà còn lan tỏa qua nhiều hệ thống và lĩnh vực khác nhau. Các yếu tố gây ra rủi ro thiên tai bao gồm biến đổi khí hậu, tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng, sự gia tăng dân số, tình trạng khẩn cấp về sức khỏe do đại dịch gây ra, các hoạt động quản lý đất đai không bền vững, xung đột vũ trang và suy thoái môi trường.

Mức độ mất mát và thiệt hại gây ra bởi các thảm họa này phụ thuộc vào tốc độ và quy mô không gian mà mà chúng xảy ra, cũng như tình trạng sẵn có của các hệ thống và yếu tố dễ bị tổn thương. Trong những tình huống cực đoan, các thảm họa này có thể dẫn đến di dời và di cư của dân cư nông thôn, gây ra tác động tiêu cực đến hệ thống sản xuất nông sản thực phẩm và gây tăng tình trạng mất an ninh lương thực.

Tăng cường khả năng phục hồi của hệ thống nông nghiệp thực phẩm

Những người nông dân, đặc biệt là những hộ sản xuất nhỏ phụ thuộc vào thời tiết, là nhóm dễ bị tổn thương nhất trong hệ thống nông nghiệp thực phẩm và thường phải chịu thiệt hại nặng nề do các thảm họa thiên tai. Để hỗ trợ họ, việc thực hiện các biện pháp thực hành tốt để giảm thiểu rủi ro từ thiên tai ở cấp trang trại có thể giúp họ tránh được thiệt hại và tăng cường khả năng phục hồi. Đầu tư vào các biện pháp thực hành tốt này có thể mang lại hiệu quả cao hơn trung bình 2,2 lần so với các biện pháp trước đây.

Việc can thiệp một cách tích cực và kịp thời để đối phó với các mối nguy hiểm được dự báo được xem là cực kỳ quan trọng để xây dựng khả năng phục hồi bằng cách ngăn chặn và giảm thiểu rủi ro trong lĩnh vực nông nghiệp. Một số ví dụ đã chứng minh rằng việc đầu tư vào các biện pháp phòng chống và ứng phó thảm họa có tỷ lệ lợi ích/chi phí thuận lợi cao. Báo cáo cho thấy, mỗi đô la đầu tư vào các biện pháp phòng ngừa có thể mang lại lợi ích lên tới 7 đô la và giảm thiểu thiệt hại cho các hộ gia đình nông thôn.

Cuối cùng, báo cáo đề xuất ba hướng tiếp cận chính, bao gồm việc cải thiện dữ liệu và thông tin về tác động của thiên tai đối với tất cả các lĩnh vực nông nghiệp; phát triển và tích hợp các phương pháp tiếp cận giảm thiểu rủi ro từ nhiều loại thiên tai vào các chính sách và chương trình ở mọi cấp; và tăng cường đầu tư vào khả năng phục hồi nhằm tối ưu hóa việc giảm thiểu rủi ro từ thiên tai trong nông nghiệp và cải thiện sản xuất nông nghiệp cũng như sinh kế.

Nguồn: Mard.gov.vn