Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Thúc đẩy đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn tại vùng ĐBSCL

Vào ngày 30/10, tại thành phố Cần Thơ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) đã tổ chức một Hội nghị nhằm thúc đẩy việc đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tại vùng ĐBSCL. Tham dự và chủ trì hội nghị là Thứ trưởng Trần Thanh Nam.

Hoi-nghi

Hội nghị cũng thu hút sự tham gia của đại diện từ các bộ, ban, ngành Trung ương cũng như địa phương tại các tỉnh trong vùng ĐBSCL, cùng với đại diện từ một số tổ chức quốc tế, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp, nhà đầu tư và các chuyên gia chuyên về nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, vùng ĐBSCL có vai trò quan trọng trong kinh tế nông nghiệp của cả nước, đóng góp trên 33% tổng sản phẩm quốc nội của ngành nông nghiệp và 30% GDP của khu vực. ĐBSCL cũng dẫn đầu cả nước về sản lượng lúa gạo, thủy sản và trái cây. Nơi này đóng góp 56% sản lượng lúa gạo (tương đương 24,5 triệu tấn), 98% sản lượng cá tra (1,41 triệu tấn) và 60% sản lượng trái cây cả nước (4,3 triệu tấn), cũng như chiếm 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% lượng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.

Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, vùng ĐBSCL vẫn đối mặt với nhiều thách thức trong việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Cơ sở hạ tầng vẫn chưa đồng bộ, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông, thủy lợi, điện và thông tin liên lạc. Trình độ sản xuất của nông dân vẫn còn thấp, và năng suất lao động vẫn chưa cao. Ngoài ra, cơ chế và chính sách khuyến khích đầu tư cũng chưa được đồng bộ và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

Để giải quyết các khó khăn trên, Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích để thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tại vùng ĐBSCL. Nhờ những chính sách này, vào năm 2023, tổng vốn đầu tư vào nông nghiệp tại ĐBSCL đạt khoảng 100.000 tỉ đồng, tăng 15% so với năm 2022. Một số dự án đầu tư lớn bao gồm một nhà máy chế biến gạo với công suất 100.000 tấn mỗi năm tại tỉnh Long An (vốn đầu tư 1.000 tỉ đồng); dự án trồng và chế biến trái cây áp dụng công nghệ cao tại tỉnh Tiền Giang (vốn đầu tư 500 tỉ đồng); và dự án nuôi thủy sản áp dụng công nghệ cao tại tỉnh Cà Mau (vốn đầu tư 200 tỉ đồng).

Tại hội nghị, các đại biểu đã thảo luận và trình bày về chính sách khuyến khích thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn tại ĐBSCL. Họ cũng đề cập đến thách thức và cơ hội liên quan đến việc thúc đẩy đầu tư vào ngành nuôi trồng thủy sản trong vùng ĐBSCL trong bối cảnh hiện tại, cũng như xu hướng đầu tư theo hướng bền vững vào nông nghiệp tại khu vực này.

Các ý kiến tại hội nghị cho thấy, để thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn tại ĐBSCL, cần tập trung vào việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Đây được xem là yếu tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc sản xuất và kinh doanh. Các cấp, ngành và địa phương cần hợp tác để đầu tư xây dựng và nâng cấp hệ thống giao thông, thủy lợi, điện và thông tin liên lạc, đặc biệt là tại các khu, cụm công nghiệp nông nghiệp và thủy sản. Đồng thời, cần nâng cao trình độ sản xuất của nông dân và ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất. Các địa phương cũng cần tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng và minh bạch để thu hút cả các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.

Trong bài phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Trần Thanh Nam đã đề cập đến một số vấn đề cụ thể mà vùng ĐBSCL cần tập trung nghiên cứu và thực hiện. Ông nhấn mạnh về việc tận dụng tối đa tiềm năng của các sản phẩm nông nghiệp từ cây ăn trái, lúa gạo và thủy sản. Thứ trưởng cũng khuyến khích các tỉnh trong vùng triển khai nhanh đề án Phát triển bền vững trên diện tích 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, kết hợp việc giảm phát thải với tăng trưởng xanh tại ĐBSCL, đặc biệt trong vụ lúa đông xuân năm 2023-2023, với diện tích 180.000 ha. Ông cũng nhấn mạnh về việc các doanh nghiệp trong ngành lúa gạo cần chia sẻ lợi ích với nông dân thông qua việc tăng cường liên kết với họ và các hợp tác xã.

Bên cạnh đó, ông cũng đề xuất việc tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng và lĩnh vực logistics, đặc biệt là tại các khu vực tập trung nguyên liệu lớn. Trong đó, ông đề cập đến việc xây dựng kho mát để phân loại, bảo quản và sơ chế nhằm nâng cao chất lượng và ổn định giá thành, từ đó tăng cường sức cạnh tranh cho nông sản xuất khẩu và nâng cao chuỗi giá trị trong ngành hàng này.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

FAO: Ước Tính Tác Động Thiên Tai Đối Với Nông Nghiệp

Theo báo cáo mới của FAO, ngành trồng trọt và chăn nuôi trên toàn cầu đã mất khoảng 3,8 nghìn tỷ USD trong vòng 30 năm qua do tác động của thiên tai.

bien-doi-khi-hau

Báo cáo gần đây từ Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO) cho biết trong 30 năm qua, sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi trị giá khoảng 3,8 nghìn tỷ USD đã bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Điều này tương đương với khoảng 123 tỷ USD mỗi năm, hay 5% tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp toàn cầu hàng năm (GDP).

Báo cáo này, mang tựa đề “Tác động của Thiên tai đối với Nông nghiệp và An ninh Lương thực,” cung cấp ước tính toàn cầu đầu tiên về tác động của thiên tai đối với sản xuất nông nghiệp, tập trung vào việc canh tác và chăn nuôi. Báo cáo nhấn mạnh rằng con số này có thể cao hơn nếu có hệ thống dữ liệu về tổn thất trong ngành thủy sản, nuôi trồng thủy sản và lâm nghiệp. Do đó, báo cáo đề xuất cần cải thiện dữ liệu và thông tin về tác động của thiên tai đối với tất cả các ngành nông nghiệp để xây dựng các hệ thống dữ liệu có thể hỗ trợ việc ra quyết định và thực hiện các biện pháp hiệu quả.

Theo báo cáo, trong ba thập kỷ qua, thiên tai – được xác định là những rối loạn nghiêm trọng trong hoạt động của một cộng đồng hoặc xã hội – đã gây ra tổn thất cao nhất cho các quốc gia có thu nhập trung bình thấp và thấp, lên đến 15% GDP nông nghiệp. Thiên tai cũng ảnh hưởng đáng kể đến các quốc đảo nhỏ đang phát triển (SIDS), với tổn thất gần 7% GDP nông nghiệp.

Tổn thất theo nhóm sản phẩm trong nông nghiệp

Theo báo cáo, tổn thất liên quan đến các loại sản phẩm nông nghiệp chính đang có xu hướng gia tăng. Cụ thể, trong ba thập kỷ qua, sản lượng ngũ cốc đã bị mất trung bình 69 triệu tấn mỗi năm, tương đương với sản lượng ngũ cốc của Pháp vào năm 2021. Đối với trái cây, rau quả và mía, mức thiệt hại trung bình hàng năm là 40 triệu tấn. Đối với rau quả, tổn thất tương đương với sản lượng rau quả của Nhật Bản và Việt Nam năm 2021.

Ngoài ra, ước tính thiệt hại đối với mặt hàng thịt, sản phẩm sữa và trứng trung bình đạt 16 triệu tấn mỗi năm, tương đương với sản lượng thịt, sữa, trứng của Mexico và Ấn Độ năm 2021.

Sự khác biệt về tác động của khí hậu theo khu vực

Báo cáo FAO đã chỉ ra sự khác biệt rõ rệt trong tác động của thiên tai đối với các khu vực và quốc gia khác nhau. Châu Á, mặc dù chịu tổn thất kinh tế nông nghiệp lớn nhất, nhưng tổn thất này chỉ chiếm 4% của giá trị gia tăng nông nghiệp. Trong khi đó, ở châu Phi, tổn thất tương đối lớn hơn, đạt gần 8% của giá trị gia tăng nông nghiệp. Sự khác biệt này còn tăng cao hơn khi so sánh các vùng khác nhau.

Mặc dù các nước thuộc các nhóm thu nhập khác nhau có mức thiệt hại khác nhau, các nước thu nhập thấp, đặc biệt là các quốc gia đảo quốc nhỏ (SIDS), thường chịu tỷ lệ thiệt hại cao nhất đối với giá trị gia tăng nông nghiệp.

Tác động đồng thời của các yếu tố thảm họa

Báo cáo của FAO nhấn mạnh rằng các sự kiện thiên tai đang trở nên ngày càng phổ biến và nghiêm trọng hơn. Trong vòng 20 năm qua, số lượng sự kiện thiên tai đã tăng từ 100 mỗi năm vào những năm 1970 lên tới khoảng 400 mỗi năm trên toàn thế giới. Điều đáng lo ngại không chỉ là tần suất tăng, mà cường độ và sự phức tạp của các sự kiện thiên tai cũng ngày càng gia tăng. Báo cáo cũng dự đoán rằng tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn trong tương lai, do các thảm họa liên quan đến biến đổi khí hậu dự kiến ​​sẽ làm gia tăng lỗ hổng xã hội và môi trường sống hiện có.

Báo cáo chỉ ra rằng khi các mối nguy hiểm này xuất hiện, chúng có thể gây ra tác động không chỉ trong một lĩnh vực, mà còn lan tỏa qua nhiều hệ thống và lĩnh vực khác nhau. Các yếu tố gây ra rủi ro thiên tai bao gồm biến đổi khí hậu, tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng, sự gia tăng dân số, tình trạng khẩn cấp về sức khỏe do đại dịch gây ra, các hoạt động quản lý đất đai không bền vững, xung đột vũ trang và suy thoái môi trường.

Mức độ mất mát và thiệt hại gây ra bởi các thảm họa này phụ thuộc vào tốc độ và quy mô không gian mà mà chúng xảy ra, cũng như tình trạng sẵn có của các hệ thống và yếu tố dễ bị tổn thương. Trong những tình huống cực đoan, các thảm họa này có thể dẫn đến di dời và di cư của dân cư nông thôn, gây ra tác động tiêu cực đến hệ thống sản xuất nông sản thực phẩm và gây tăng tình trạng mất an ninh lương thực.

Tăng cường khả năng phục hồi của hệ thống nông nghiệp thực phẩm

Những người nông dân, đặc biệt là những hộ sản xuất nhỏ phụ thuộc vào thời tiết, là nhóm dễ bị tổn thương nhất trong hệ thống nông nghiệp thực phẩm và thường phải chịu thiệt hại nặng nề do các thảm họa thiên tai. Để hỗ trợ họ, việc thực hiện các biện pháp thực hành tốt để giảm thiểu rủi ro từ thiên tai ở cấp trang trại có thể giúp họ tránh được thiệt hại và tăng cường khả năng phục hồi. Đầu tư vào các biện pháp thực hành tốt này có thể mang lại hiệu quả cao hơn trung bình 2,2 lần so với các biện pháp trước đây.

Việc can thiệp một cách tích cực và kịp thời để đối phó với các mối nguy hiểm được dự báo được xem là cực kỳ quan trọng để xây dựng khả năng phục hồi bằng cách ngăn chặn và giảm thiểu rủi ro trong lĩnh vực nông nghiệp. Một số ví dụ đã chứng minh rằng việc đầu tư vào các biện pháp phòng chống và ứng phó thảm họa có tỷ lệ lợi ích/chi phí thuận lợi cao. Báo cáo cho thấy, mỗi đô la đầu tư vào các biện pháp phòng ngừa có thể mang lại lợi ích lên tới 7 đô la và giảm thiểu thiệt hại cho các hộ gia đình nông thôn.

Cuối cùng, báo cáo đề xuất ba hướng tiếp cận chính, bao gồm việc cải thiện dữ liệu và thông tin về tác động của thiên tai đối với tất cả các lĩnh vực nông nghiệp; phát triển và tích hợp các phương pháp tiếp cận giảm thiểu rủi ro từ nhiều loại thiên tai vào các chính sách và chương trình ở mọi cấp; và tăng cường đầu tư vào khả năng phục hồi nhằm tối ưu hóa việc giảm thiểu rủi ro từ thiên tai trong nông nghiệp và cải thiện sản xuất nông nghiệp cũng như sinh kế.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Hội nghị Toàn Quốc: Tương Lai Bền Vững Nông Nghiệp và Môi Trường.

Ngày 22/9 vừa qua, tại thủ đô Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) đã tổ chức thành công Hội nghị Khoa học, Công nghệ và Đổi mới Sáng tạo trong lĩnh vực Đào sâu và Bảo vệ thực vật. Sự kiện quan trọng này được chủ trì bởi Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn – ông Phùng Đức Tiến.

Hội nghị này đã thu hút sự tham gia đông đảo của các chuyên gia, nhà nghiên cứu và các bên liên quan trong ngành nông nghiệp và bảo vệ thực vật, tạo nên một diễn đàn quý giá để chia sẻ kiến ​​thức, kinh nghiệm thử nghiệm và thảo luận về những cách nâng cao hiệu suất sản xuất, bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh thực phẩm trong tương lai.anh 1

Tại Hội nghị quan trọng này, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đã chia sẻ những thông tin về đóng góp quan trọng của ngành nông nghiệp Việt Nam đối với nền kinh tế quốc gia. Ông thông báo rằng Việt Nam hiện đang ở trong nhóm nước xuất khẩu nông sản hàng đầu trên thế giới. Năm 2022, tổng giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam đạt mức 53,4 tỷ USD, tăng 9,7% so với năm 2021. Trong số này, các sản phẩm trồng chậm đã đóng góp 22,6 tỷ USD, tăng 2,88%.

Trong 8 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu nông sản tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ, đạt 33,2 tỷ USD, trong đó ngành trồng khoai ghi nhận con số ấn tượng là 16,9 tỷ USD. Điều này chứng tỏ mức độ quan trọng của trồng trọt trong ngành nông nghiệp của Việt Nam, sử dụng từ 42-50% giá trị xuất khẩu của ngành này trong ngành này.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng nhấn mạnh rằng Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội đã có thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với ngành nông nghiệp Việt Nam. Ngành này không chỉ đóng vai trò là trụ đỡ mà còn thực sự trở thành bệ đỡ của nền kinh tế quốc gia, không chỉ ở thời điểm hiện tại mà còn trong tương lai. Điều này có thể hiện thực hóa quan tâm và nhận thức về vai trò quan trọng của nông nghiệp trong công việc đảm bảo an ninh thực phẩm và phát triển kinh tế bền vững của Việt Nam.

anh 2

Đào sâu là ngành quan trọng trong nông nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh xung đột Nga – Ukraine Tạo lương thực thế giới rừng cung ứng. Việt Nam đã xuất khẩu bình đẳng kỷ lục 5,81 triệu tấn trong 8 tháng năm 2023, tăng 21,4%. Sản phẩm này góp phần quan trọng đưa kim ngạch xuất khẩu Bình 8 tháng lên gần 3,16 tỷ USD, tăng hơn 35,7%. Việt Nam có thể thực hiện trách nhiệm đảm bảo an ninh lương thực thế giới thông qua xuất khẩu bình, đóng góp vào ổn định thị trường toàn cầu và đảm bảo nguồn cung ứng.

Sự đóng góp quan trọng của Khoa học, Công nghệ và Đổi mới Sáng tạo (KHCN) không thể bỏ qua thành công của ngành trồng trọt và nông nghiệp Việt Nam. Trong giai đoạn 2020-2023, các nhà khoa học đã nghiên cứu và phát triển 148 giống cây trồng được công nhận và 36 Tiến bộ kỹ thuật được ứng dụng trong sản xuất, giúp tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Hiệu quả sản xuất đã liên tục tăng qua các năm, với giá trị 01 ha đất trồng năm 2022 đạt 104,2 triệu đồng/ha, tăng 0,6% so với năm 2021. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 ( CM 4.0) đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu và KHCN vẫn đóng vai trò then chốt. Theo ước tính, KHCN đã đóng góp trên 35% vào thành công của sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam trong thời gian qua. Điều này đã duy trì tốc độ tăng trưởng biểu tượng của ngành nông nghiệp và lĩnh vực trồng trọt,
Tại Hội nghị, các đại biểu đã tập trung thảo luận về Thành tựu trong lĩnh vực Thâm hụt – Bảo vệ thực vật của Việt Nam trong giai đoạn 2020-2023, bao gồm cả những Thành tựu kế thừa. Họ đã phân tích và đánh giá các công thức trong nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, xác định nguyên nhân và đề xuất hướng nghiên cứu và chuyển giao. Ngoài ra, các đại biểu cũng đưa ra các đề xuất và giải pháp đối với Nhà nước, phủ Chính phủ, cũng như các tổ chức trong và ngoài nước. Các vấn đề xuất bản này tập trung vào việc cải thiện cơ chế chính sách, quản lý, đầu tư, hợp tác và chia sẻ lợi ích từ hoạt động nghiên cứu, thúc đẩy sự phát triển bền vững của lĩnh vực này.

Tại Hội nghị, các đại biểu không chỉ thảo luận về thành vật trong lĩnh vực Chuồn – Bảo vệ thực vật mà còn đưa ra những vấn đề sản xuất quan trọng đối với Nhà nước, phủ Chính, cũng như các tổ chức trong và ngoài nước nước . Các vấn đề xuất bản tập trung vào giải quyết khó khăn và câu hỏi trong quá trình nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Đặc biệt, các đại biểu đã chia sẻ lời khuyên về cơ chế chính sách, quản lý, đầu tư, hợp tác và chia sẻ lợi ích từ hoạt động nghiên cứu, thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành này và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến thăm gian hàng và giới thiệu sản phẩm tại Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS)/Viện KHKT Nông nghiệp miền Nam (IAS).

anh 3

anh 4

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
AGRITECH Công nghệ mới NÔNG NGHIỆP 360 Startup thế giới Tin tức sự kiện

Startup về dế Cricket One đã khép lại vòng gọi vốn Series A và mở cơ sở chế biến dế lớn nhất châu Á.

Startup về dế Cricket One của Việt Nam đã mở một cơ sở chế biến được cho là lớn nhất châu Á và đã hoàn thành vòng gọi vốn series A với mức đầu tư lên đến “7 chữ số”.

Vòng gọi vốn này được dẫn đầu bởi nhà đầu tư đến từ Singapore – Robert Alexander Stone cùng Cub Capital với một văn phòng tại Singapore.

Cơ sở mới này nằm ở Bình Phước, phía bắc Sài Gòn, ban đầu sẽ có công suất 1.000 tấn/năm và ước tính đạt đến 10.000 tấn trong vòng năm năm tới.

Trong khi các doanh nghiệp sản xuất thức ăn bằng côn trùng như Ÿnsect (Mealworm – tạm dịch: sâu meal hay sâu bột) và Innovafeed (Black soldier flies – tạm dịch: ruồi lính đen) chủ yếu tập trung vào thị trường thức ăn cho động vật, và Aspire (dế) chủ yếu nhắm vào ngành công nghiệp thức ăn cho thú cưng Bắc Mỹ, thì Cricket One đang nhắm vào thị trường thực phẩm cho con người và thú cưng bằng bột protein từ dế, thịt dế tái cấu trúc, snack dế và các loại thực phẩm bổ sung.

Mô hình kinh doanh: Chế biến tập trung và nuôi trồng phân tán

Cricket One – do anh Nam Đặng cùng chị Bicky Nguyễn thành lập vào năm 2016 và bắt đầu sản xuất thương mại vào cuối năm 2017 – đã bắt đầu bằng việc chế biến dế nuôi bởi các nông hộ địa phương trong các container vận chuyển bỏ hoang. Tuy nhiên, sau đó chúng tôi đã thay đổi một chút – Đồng sáng lập Nam Đặng nói với AgFunderNews.

Dế sẽ được nuôi tại các khu vực lân cận nhà máy và sau đó được chuyển đến nhà máy để tiến hành quá trình chế biến. Thay vì nuôi dế trong những container, chúng tôi đã thử một phương pháp mới.

“Nông dân xây dựng những chuồng trại nuôi dế dưới sự hướng dẫn và theo quy chuẩn của Cricket One. Bên cạnh đó, chúng tôi cung cấp cho họ thiết bị và kiến thức nuôi dế. Nông dân quản lý các trang trại dưới sự giám sát của chúng tôi, tuân thủ quy trình của chúng tôi, nuôi dế từ nguồn trứng và sử dụng thức ăn mà chúng tôi cung cấp. Họ sẽ bán dế cho chúng tôi, đảm bảo rằng sự hợp tác sẽ mang lại lợi ích cho cả 2 bên. Hiện nay, khoảng 45% sản phẩm của Cricket One đến từ các trang trại của những hộ nông dân này.”

Cricket One, theo Nam Đặng, cũng tự nuôi một phần của dế của riêng mình. Tuy nhiên, việc chế biến sẽ được diễn ra tập trung tại một nhà máy được chứng nhận đầy đủ.

“Mô hình nuôi trồng phân tán này cho phép chúng tôi tăng khả năng chứa gấp đôi gần như tức thì. Tuy nhiên, nhà máy chế biến sẽ trở thành điểm hạn chế do thời gian cần thiết cho việc xây dựng, mua sắm máy móc và chứng nhận”, Nam Đặng nói. “Nhưng với sự mở rộng của nhà máy hiện tại, chúng tôi có đủ không gian để mở rộng trong vài năm tới.”

Tối ưu hóa thức ăn
Vậy Cricket One cho dế của họ ăn gì?

Công thức này đang được liên tục hoàn thiện và tối ưu hóa, vì “Dế là những gì chúng ăn”, anh Nam giải thích. “Chúng tôi đã làm việc cùng với Học viện Nông nghiệp Việt Nam để nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng của dế và đã phát triển hơn 60 công thức thức ăn cho dế dựa trên sản phẩm phụ phổ biến [từ chất thải nông nghiệp được tái chế] như lá và cám.

“Thức ăn cho dế được sản xuất dưới dạng bột mịn và sau đó được sản xuất OEM tại một nhà máy thức ăn lớn tại Việt Nam. Chúng tôi đang xử lý hàng trăm tấn thức ăn hàng tháng.”

“Chi phí chủ yếu trong chuỗi cung ứng dế bao gồm chi phí thức ăn đứng đầu, tiếp theo là chi phí năng lượng (chủ yếu cho việc chế biến dế) và chi phí lao động. Khi tối ưu được chi phí thức ăn, chúng tôi có thể cải thiện biên lợi nhuận của mình một cách đáng kể.”

Cricket powder

Tự động hóa và quy mô
Tự động hóa và quy mô là yếu tố quan trọng để đạt được hiệu quả kinh doanh trong sản xuất thực phẩm về dế, anh Nam cho biết. “Khi áp dụng công nghệ, việc thu hoạch một thùng nuôi có diện tích 1 mét vuông giảm từ 10 phút xuống chỉ còn 20 giây.”

Nhưng điều đó không có nghĩa phải áp dụng những công nghệ tối tân, anh Nam nói. “Chúng tôi ưa chuộng những giải pháp đơn giản, chi phí thấp nhưng vẫn hiệu quả và mang lại lợi nhuận cao hơn từ đầu tư. Chúng tôi tiến hành tự động hóa việc nuôi trồng dế. Tuy nhiên, cốt lõi của toàn bộ mô hình chính là những người nông dân – công nghệ chỉ để hỗ trợ con người, làm cho công việc trở nên dễ dàng hơn và hiệu quả hơn.

“Tại trang trại của chúng tôi, việc cung cấp thức ăn và nước cho dế đã được tự động hóa. Việc thu hoạch dế, thì thường sẽ do nông dân đảm nhiệm, cũng đang trong giai đoạn được cơ giới hóa.”

Chi phí lao động: ‘Dây chuyền sản xuất 1.000 tấn mỗi năm chỉ cần 5 nhân công’
Về chi phí lao động, anh Nam nói, “Nơi chế biến dế là một hệ thống khép kín. Khi dế được thu hoạch và vận chuyển đến nhà máy, chúng sẽ trải qua quá trình liên tục từ làm sạch, khử nước, khử mỡ, nghiền và ép đùn. Dây chuyền sản xuất 1.000 tấn mỗi năm chỉ cần 5 công nhân.

“Khi hoàn thành công suất tối đa, dự kiến trong vòng 5 năm tới, chúng tôi sẽ chế biến khoảng 10.000 tấn hàng năm..”

So sánh với Aspire – đã xây dựng gần đây nhà máy chế biến dế lớn nhất thế giới tại Canada, đang hướng tới đạt 50-60% công suất vào cuối năm nay tại một nhà máy có công suất hàng năm là 12.000 tấn dế đông lạnh.

Thức ăn cho con người, thức ăn cho thú cưng, thức ăn cho động vật: Nhu cầu về sản phẩm từ dế đến từ đâu?
Khi được hỏi về nhu cầu về sản phẩm từ dế, anh Nam nói rằng Cricket One đang nhìn thấy nhu cầu từ thức ăn cho con người, thức ăn cho thú cưng và thức ăn cho động vật (chủ yếu là thủy sản), và hiện nay đã và đang hợp tác với 15 nhà phân phối trên toàn cầu tại 20 thị trường.

“Ở EU, Cricket One hiện là nhà sản xuất duy nhất ngoài khu vực được ủy quyền để bán bột protein từ dế,” anh Nam nhấn mạnh. “Chúng tôi nhận thấy sự phát triển đáng kể trong tất cả ba lĩnh vực thị trường, đặc biệt là từ phía các tập đoàn lớn.”

Ngành công nghiệp thực phẩm từ côn trùng cho con người đang thu hút sự chú ý đặc biệt tại Việt Nam, Thái Lan và Campuchia, nơi “hơn 70% dân số chấp nhận cho việc tiêu thụ dế”, anh Nam nói. “Tuy nhiên, châu Á đang bị chậm lại so với châu u về đổi mới sản phẩm. Hầu hết các thực phẩm côn trùng tiêu thụ ở châu Á đang ở dạng nguyên con.”

Tuy nhiên, bột từ dế hiện đang được ứng dụng thành dạng snack thị trường châu Á, anh ta nói. “Mục tiêu chính là thay thế một phần của tôm bằng dế trong các sản phẩm Snack với sự tiết kiệm và bền vững, đồng thời cung cấp cùng một lượng dinh dưỡng.”

Cũng có rào cản văn hóa đối với việc tiêu thụ thực phẩm côn trùng ở châu u vì họ không truyền thống ăn côn trùng, anh Nam nói. “Tuy nhiên, châu u có một mức độ đổi mới sản phẩm đáng kinh ngạc, đa dạng sản phẩm và giáo dục thị trường. Nhiều Startup, doanh nghiệp vừa và nhỏ đang dẫn đầu thị trường và thậm chí, các nhà bán lẻ lớn ở Đức, Pháp, Ý và Cộng hòa Séc cũng rất muốn sẽ sớm được cung cấp các sản phẩm dựa trên côn trùng.”

‘Tiếp tục bán bột từ dế không thể kích thích sự tăng trưởng’
Tuy nhiên, anh Nam lập luận rằng “Sự tăng trưởng tỷ lệ thuận trực tiếp với đổi mới sản phẩm và nỗ lực giáo dục thị trường”.

“Chỉ việc bán bột từ dế sẽ không thể kích thích sự tăng trưởng. Các nhà sản xuất như chúng tôi đang mở rộng bằng cách cung cấp các loại Snack từ dế như thương hiệu Rec Rec của chúng tôi ở Việt Nam. Ngoài ra, chúng tôi cung cấp các sản phẩm như bánh tráng, các loại Snack để tối ưu việc ra mắt sản phẩm các sản phẩm tiện lợi và dễ dàng cho khách hàng sử dụng hơn.”

Khi nói về thức ăn cho thú cưng và động vật, anh Nam nói, “Hai phân khúc này có triển vọng và tỷ lệ tiêu thụ cao. Tuy nhiên, họ đòi hỏi những phương pháp khoa học cần nghiên cứu sâu hơn cùng nhiều khía cạnh khác, trong khi giá cả phải hợp lý. Phân khúc này chỉ khả thi cho các công ty có khả năng tối ưu hóa chi phí của họ.”

Snack: Rec Rec
Rec Rec – sản phẩm snack đầu tiên của Cricket One – đã ra mắt vào tháng 2, anh Nam cho biết. “Các sản phẩm đầu tiên dưới nhãn hiệu Rec Rec là dế nguyên con được trộn với gia vị, có sẵn tại gần 200 cửa hàng bán lẻ và được xếp vào danh sách các loại snack được yêu thích trên các nền tảng thương mại điện tử như Shopee, Lazada và Tiki. Rec Rec cũng được bán kèm bởi các thương hiệu bia hàng đầu và chúng tôi đang mang đến 15.000 sản phẩm này cho người tiêu dùng mỗi tháng.

“Snack dế, có cả phiên bản Ready to Cook và Ready to Eat, sẽ ra mắt vào tháng 10. Với sản phẩm này, chúng tôi đang thách thức thị trường Snack chiếm 200 triệu đô la ở Việt Nam.”

Theo AgFunderNews

 

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Nông nghiệp vẫn là nồng cốt chóng đỡ nền kinh tế

(02/09/2023) Trong 8 tháng gần đây, nông nghiệp đã thể hiện sự mạnh mẽ của mình trong bối cảnh khó khăn về thị trường và biến đổi khí hậu, với sự hỗ trợ của doanh nghiệp và cộng đồng nông dân trên khắp cả nước.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), ngành này đã ghi nhận một thặng dư trong cán cân thương mại lên đến hơn 6,7 tỷ USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Nông nghiệp vẫn duy trì vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đồng thời đảm bảo an ninh lương thực và tăng cường xuất khẩu.

Cụ thể, vùng ĐBSCL đã nhanh chóng mở rộng diện tích canh tác lúa Thu Đông lên 700.000 ha để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Sự tăng giá lúa đã mang lại động lực cho các nông dân để tập trung vào chất lượng sản phẩm.

Nganh nong nghiep tiep tuc dong vai tro quan trong lam tru do cho nen kinh te, dong thoi dam bao dong thoi hai muc tieu chinh: an ninh luong thuc va xuat khau.

Sự ổn định trong nước đã làm cho việc tăng cường xuất khẩu trở nên hiệu quả hơn. Trong 8 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm và thủy sản đã vượt qua con số 33 tỷ USD. Các mặt hàng như rau quả, lúa gạo, hạt điều và sản phẩm chăn nuôi đã thể hiện sự phát triển mạnh mẽ.

Đáng chú ý, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tiếp tục tăng lên mức cao nhất thế giới, đạt khoảng 628 – 643 USD/tấn, trong khi sầu riêng Việt Nam là mặt hàng độc quyền. Điều này sẽ tạo ra đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế.

Trong bối cảnh xung đột chính trị và biến đổi khí hậu toàn cầu, ít quốc gia có khả năng cung ứng đủ lương thực cho nhu cầu nội địa và xuất khẩu như Việt Nam. Do đó, ngoài lợi ích quốc gia, Việt Nam còn đảm nhận trách nhiệm xã hội bằng việc chia sẻ lương thực với các quốc gia khác, trong bối cảnh có hơn 700 triệu người đang phải đối mặt với nạn đói do biến đổi khí hậu.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nông, lâm và thủy sản trong tám tháng đầu năm 2023 được ước tính đạt 59,69 tỷ USD, với kim ngạch xuất khẩu 33,21 tỷ USD và nhập khẩu 26,48 tỷ USD, tạo ra thặng dư 6,72 tỷ USD.

Về xuất khẩu, trong tháng 8 kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 4,36 tỷ USD, giảm 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu nông sản tăng 11,5%( 2,16 tỷ USD), chăn nuôi tăng 24% ( 50 triệu USD), trong khi xuất khẩu thủy sản giảm 24% (750 triệu USD) và lâm sản giảm 21,5% ( 1,19 tỷ USD). Đầu vào sản xuất tăng 13,3% ( 207 triệu USD).

Trong tám tháng đầu năm, mặc dù một số mặt hàng xuất khẩu chính giảm giá trị so với cùng kỳ năm trước, tổng kim ngạch xuất khẩu trong dự tính 33,21 tỷ USD, giảm đi 9,5%. Cụ thể, xuất khẩu thuỷ sản giảm 25,4% (5,68 tỷ USD), lâm sản giảm 25,1% (8,95 tỷ USD), và đầu vào sản xuất giảm 21,9% (1,32 tỷ USD). Tuy nhiên, một số mặt hàng như nông sản đã tăng giá trị xuất khẩu lên 16,9 tỷ USD, tăng 11,5%, trong đó nổi bật là mặt hàng rau quả với 3,45 tỷ USD, tăng 57,5%, gạo với 3,17 tỷ USD, tăng 36,1%, hạt điều với 2,23 tỷ USD, tăng 8,9%, và cà phê với 2,94 tỷ USD, tăng 2,3%. Sản phẩm chăn nuôi cũng tăng 26,1% lên 325 triệu USD.

Nguồn: Vinacas

Chuyên mục
Báo cáo chính sách NÔNG NGHIỆP 360 Nông sản chế biến Thủy hải sản TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Tin tức sự kiện Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

EU Công Bố Quy Định Mới về Dư Lượng Hóa Chất trong Nông Sản và Thực Phẩm

(11/3/2023) EU vừa công bố một loạt quy định mới về dư lượng hóa chất trong nông sản và thực phẩm.

Chủ yếu là các quy định tập trung vào một loạt sản phẩm nông sản và thực phẩm đa dạng, bao gồm rau, củ, quả tươi và đông lạnh,…. Ngoài ra, các sản phẩm thuộc nhóm hạt điều, cà phê, chè, sản phẩm gia vị, ngũ cốc, hạt có dầu, sản phẩm từ động vật trên cạn như thịt, trứng, sữa và mật ong cũng nằm trong phạm vi của các quy định này. Điều này tạo ra một bộ khung chung để kiểm soát dư lượng hóa chất trong các sản phẩm này, nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và sức khỏe của người tiêu dùng.

EU đã thiết lập các mức giới hạn dư lượng (MRL) cho các hoạt chất khác nhau trên các loại sản phẩm khác nhau, bắt đầu từ 0,01 mg/kg. Tuy nhiên, EU cũng đã đưa ra các MRL tùy chỉnh cho một số hoạt chất ở mức 0,05 mg/kg, 0,07 mg/kg và thậm chí 1,5 mg/kg trên một số nhóm sản phẩm như rau, củ, rau gia vị, thịt và các sản phẩm từ nội tạng động vật. Năm 2023, EU đã tập trung vào việc sửa đổi nhiều quy định MRL trong Quy định (EC) số 396/2005. Những thay đổi này sẽ có hiệu lực từ ngày 26/9/2023.

Đồng thời, Ủy ban châu Âu đã ban hành các quy định mới liên quan đến MRL tối đa cho arsenic (Asen) trong một số loại thực phẩm như gạo, các sản phẩm chế biến từ gạo, thực phẩm dinh dưỡng cho trẻ em, nước hoa quả, sản phẩm hoa quả cô đặc và muối. Mức MRL cho Asen dao động từ 0,01 đến 0,15 mg/kg trên các sản phẩm này. Quy định này áp dụng trực tiếp cho tất cả các quốc gia thành viên của EU và có hiệu lực từ ngày 26/3/2023.

Muc dư luong toi da (MRL) đoi voi hoat chat isoxaben, novaluron va tetraconazole
Mức dư lượng tối đa (MRL) đối với hoạt chất isoxaben, novaluron và tetraconazole

Trước đó, Ủy ban châu u đã ban hành Quy định 2023/174 để sửa đổi Quy định 2019/1793 về việc thực hiện tạm thời các biện pháp kiểm soát chính thức và khẩn cấp đối với một số hàng hóa được nhập khẩu vào EU.

Cụ thể, quy định này đã sửa đổi một số mặt hàng từ Việt Nam như sau: mì ăn liền chứa gia vị, bột nêm hoặc nước sốt và quả thanh long sẽ có tần suất kiểm tra thuốc bảo vệ thực vật là 20%. Đậu bắp và ớt chuông thuộc giống capsicum vẫn duy trì tần suất kiểm tra là 50%. Điểm mới trong qui định này là đậu bắp sản xuất tại Việt Nam phải có chứng thư kiểm soát thuốc bảo vệ thực vật do phía Việt Nam cấp. Tuy nhiên, quy định mới cũng gỡ bỏ kiểm soát đối với 4 sản phẩm của Việt Nam là mùi tây, rau mùi, húng quế và bạc hà, không còn bị kiểm soát ở mức 50% khi xuất khẩu vào thị trường EU như trước đây.

Đáng lưu ý, theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Hoàng Thúy, Tham tán thương mại Việt Nam tại Thụy Điển, Nghị viện châu Âu và Hội đồng châu Âu họp định kỳ 6 tháng một lần để xem xét và đánh giá mức độ vi phạm về an toàn thực phẩm và thức ăn chăn nuôi của các quốc gia xuất khẩu vào EU. Sau đó, Ủy ban châu Âu sẽ thông báo về những thay đổi trong quy định về các biện pháp kiểm soát. Có các sản phẩm sẽ được tăng cường kiểm soát và có sản phẩm được loại bỏ khỏi danh sách kiểm soát.

Vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU cần tuân thủ các ngưỡng kiểm soát để tránh vi phạm. Sự vi phạm của chỉ một vài doanh nghiệp có thể ảnh hưởng đến toàn bộ ngành và gây ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác.

Ngoài ra, Ủy ban châu Âu đã ban hành Quy định 2022/741 về kiểm soát mức dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tối đa và đánh giá mức độ tiếp xúc của người tiêu dùng với dư lượng thuốc trừ sâu trên và trong thực phẩm có nguồn gốc động vật. Các quốc gia thành viên sẽ thu thập và phân tích mẫu cho các tổ hợp thuốc trừ sâu được đề cập trong quy định. Các sản phẩm từ nguồn thực vật và động vật, chẳng hạn như cam, táo, chuối, kiwi, bưởi, hành tây, cà rốt, bông cải xanh, cải bắp, đậu, ớt, gạo ngoại vỏ, mỡ gia cầm, sữa bò, và trứng gà, sẽ được lấy mẫu ngẫu nhiên để kiểm tra. Ngoài việc kiểm tra tại cửa khẩu, các sản phẩm này sẽ được kiểm tra ngay cả khi đã đến các siêu thị. Nếu có bất kỳ dấu hiệu vi phạm nào, cơ quan thích hợp sẽ tiếp tục kiểm tra tại các kho hàng nhập khẩu. Bà Thúy đã nêu rõ, “Sản phẩm vi phạm sẽ bị thu hồi và thông tin về vi phạm sẽ được đăng rộng trên các phương tiện truyền thông. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh sản phẩm của Việt Nam tại các thị trường khó tính này, trong bối cảnh xây dựng hình ảnh tại những thị trường này đã rất khó khăn.”

Nguồn:Vinacas

Chuyên mục
Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Tin tức sự kiện Trái cây XUẤT NHẬP KHẨU

Thách Thức Xuất Khẩu Nông Sản và Bảo Vệ Môi Trường

Xuất khẩu nông sản của Việt Nam đang đối mặt với một loạt thách thức quan trọng, đặc biệt là trong bối cảnh các quy định về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường đang trở thành xu hướng không thể tránh được các thị trường xuất khẩu chính của nước.

trien lam 2

Mặc dù đã đạt được những thành tựu tích cực trong việc xuất khẩu nông sản, tình hình không khỏi đối diện với nhiều khó khăn. Bà Nguyễn Thảo Hiền, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ (Bộ Công Thương), cụ thể trong buổi hội thảo Sự kiện “Đưa nông sản và thực phẩm chế biến của Việt Nam vào hệ thống phân phối quốc tế” diễn ra vào ngày 14/9 đã thảo luận về sự gia tăng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu nông sản, thủy sản và thực phẩm trong vài năm gần đây. Tổng kim ngạch xuất khẩu đã đạt khoảng 53,2 tỷ USD vào năm 2022, tăng khoảng 10% so với năm 2021.

THÁCH THỨC ĐÁP ỨNG CÁC TIÊU CHÍ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Tuy nhiên, năm 2023 dù phải đối mặt với nhiều khó khăn bao gồm cả tình hình lạm phát gia tăng ở các thị trường xuất khẩu chủ lực, Việt Nam vẫn ​​vượt qua ngưỡng 50 tỷ USD trong kim ngạch xuất khẩu nông sản, thủy sản và thực phẩm. Việt Nam hiện nay đứng trong top 3 nhà cung ứng lớn nhất thế giới về cà phê, hạt điều, hạt tiêu và lớn thứ ba về gạo.

Bà Hiền cho rằng, dù có những thành tựu đáng kể, ngành nông sản của Việt Nam đang đối diện với những thách thức quan trọng. Cụ thể, quy định về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường đang trở nên ngày càng quan trọng tại hầu hết các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam. Các quốc gia không chỉ đang điều chỉnh khung pháp lý của họ liên quan đến phát triển bền vững và bảo vệ môi trường mà còn đang tạo ra những cam kết mạnh mẽ tại các hội nghị quốc tế về biến đổi khí hậu như COP26 và COP27.

trien lam quoc te

Đặc biệt, EU đã dẫn đầu trong việc ban hành các quy định nghiêm ngặt như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) và Quy định chống suy thoái rừng (EUDR). Những quy định này bắt buộc các nhà nhập khẩu vào EU phải báo cáo lượng khí nhà kính phát thải từ hàng hóa của họ và nếu vi phạm, họ sẽ bị phạt.

Mỹ, Canada cũng đang xem xét áp dụng các biện pháp tương tự CBAM và EUDR của EU. EU cũng đã nêu rõ rằng các nhóm hàng hóa thuộc phạm vi của CBAM và EUDR sẽ được mở rộng trong tương lai.

Tổng hợp lại, quy định về bảo vệ môi trường đang trở nên ngày càng nghiêm ngặt tại các thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam như EU, North America (Bắc Mỹ) và các thị trường phía Đông Bắc của châu Á. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực đáng kể từ phía các doanh nghiệp nông sản nếu muốn duy trì vị trí của họ trên những thị trường này.

CẦN XANH TỪ SẢN XUẤT, CANH TÁC 

Để đáp ứng yêu cầu của thị trường và duy trì sự phát triển trong tương lai, việc thực hiện chuyển đổi hướng tới sự bền vững và áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn là một xu hướng không thể tránh. Hiện tượng này đang tạo ra một cơ hội mới trong thương mại và đầu tư toàn cầu.

Bên cạnh chất lượng sản phẩm và giá trị, khách hàng ngày càng quan tâm đến việc các doanh nghiệp có đang tuân thủ các yêu cầu cao từ phía khách hàng, bao gồm cả việc giảm phát thải, thực hiện quy trình sản xuất sạch, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và thúc đẩy sự phát triển bền vững.

Theo ông Trần Minh Thắng, đại diện Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ, việc tuân thủ các quy định về an toàn thực phẩm là một điều kiện tiên quyết để sản phẩm nông sản và trái cây có thể thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. Điều này đòi hỏi các giai đoạn từ canh tác đến thu hoạch phải tuân theo các quy định và tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu.

Ngoài ra, cần thiết phải cải thiện công nghệ bảo quản sau thu hoạch, đảm bảo tính nhất quán trong quy trình sơ chế, đóng gói, lưu trữ và vận chuyển, để đảm bảo điều kiện nhiệt độ và độ ẩm lý tưởng cho sản phẩm nông sản.

Ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng chế biến và phát triển thị trường, kiêm Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam nhấn mạnh rằng việc phát triển bền vững trong chuỗi cung ứng nông sản và đảm bảo an toàn thực phẩm là vô cùng quan trọng trong ngành này. Doanh nghiệp cần phải thực hiện chuyển đổi để đáp ứng những yêu cầu này.

Bên cạnh vai trò của doanh nghiệp, Nhà nước cũng cần hoàn thiện thể chế chính sách pháp luật và xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với thực tế và quy chuẩn quốc tế. Điều này bao gồm việc đầu tư nguồn lực, tạo cơ chế để đào tạo quản lý, giám sát, hướng dẫn và hỗ trợ đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm trong các giai đoạn từ sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, đến kết nối với thị trường nội địa và quốc tế.

Ngoài ra, cần phải cập nhật quy định và thông tin phân tích thị trường và nắm bắt sự thay đổi trong sở thích của người tiêu dùng để phát triển sản phẩm phù hợp. Đồng thời, triển khai các đề án phát triển nguồn nguyên liệu, cải thiện hệ thống logistics theo chuỗi cung ứng nông sản, giảm tổn thất sau thu hoạch và nâng cao chất lượng sản phẩm nông lâm thủy sản. Ngoài ra, cần tạo điều kiện để doanh nghiệp và người dân có thể tiếp cận với công nghệ, chuyển đổi số và kênh tiếp thị kỹ thuật số để kết nối với thị trường và người tiêu dùng.

Nguồn: Vinacas

Chuyên mục
Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Tin tức sự kiện

Măng Cụt Và Dứa Trở Nên Phổ Biến Trên Thị Trường Trung Quốc

Trong những năm gần đây, Viện Khoa học Nông nghiệp Nhiệt đới Trung Quốc tại Sanya đã tích cực cố gắng đa dạng hóa các loại trái cây nhiệt đới và phát triển các giống mới. Tuần trước, viện đã trồng 700 cây con “măng cụt dứa” tại cơ sở trồng trọt ở Quận Yazhou.

Loại măng cụt dứa này, có tên chính thức là Tainong số 23, nổi bật là một trong những giống mới được lai tạo gần đây tại Hải Nam. Khi cắt mở, trái cây tỏ ra có mùi hương măng cụt mạnh mẽ, đúng với cái tên của nó, và lớp thịt vàng ngon và mềm mại.

Giống mới này đã thể hiện khả năng thích ứng đáng kể tại Sanya và tương đối dễ trồng và chăm sóc. Tại làng Nashou gần đó, đã trồng khoảng 3,3 hecta măng cụt dứa. Kể từ khi ra mắt thị trường vào tháng 4, loại dứa này đã nhận được phản hồi tích cực từ người tiêu dùng, với các lựa chọn loại hạng cao có giá cả tại cửa nông trang lên đến 10 nhân dân tệ Trung Quốc (1,37 đô la Mỹ) mỗi kilogram.

Ngoài hương vị đặc biệt, măng cụt dứa được phân biệt bởi sự hiện có hạn chế. Hiện tại, chúng được trồng chủ yếu tại tỉnh Hải Nam và vẫn còn là một sự hiếm có trên thị trường. Trong những năm gần đây, Sanya đã liên tục giới thiệu các giống trái cây nhiệt đới mới và cao cấp từ các vùng có cùng vĩ độ. Cơ sở trồng trọt ở Yazhou hiện nay có bộ sưu tập hơn 170 loại trái cây nhiệt đới từ cùng một vĩ độ.

Nguồn: Produce Report

Chuyên mục
Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Tin tức sự kiện Trái cây Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Nữ hoàng cao cấp Nho Nina tấn công thị trường Trung Quốc

Nho cao cấp Queen Nina được trồng tại tỉnh Vân Nam hiện đã có mặt tại một số siêu thị boutique và thị trường bán sỉ nông sản tại Trung Quốc. Các trái nho Queen Nina mùa đầu tại cửa hàng City’super được sản xuất tại Jiànshuǐ và có giá hơn 100 nhân dân tệ Trung Quốc (13,94 đô la Mỹ) cho một chùm nho 400 gram. Trong khi đó, trên nền tảng trực tuyến Taobao, trái nho này được bán với giá khoảng 200 nhân dân tệ (27,88 đô la Mỹ) cho mỗi kilogram và hơn 80 nhân dân tệ (11,15 đô la Mỹ) cho mỗi kilogram tại thị trường bán sỉ Xinfadi ở Bắc Kinh.

Theo nhân viên của City’super, chuỗi siêu thị này đã bán trái nho Queen Nina từ trước năm 2020. Do sản phẩm này trở nên phổ biến hơn đối với khách hàng, doanh số bán hàng đã từ từ tăng lên, dẫn đến giá có sự sụt giảm. Hiện tại, trái nho Queen Nina chiếm khoảng 1% tổng doanh số bán hàng của chuỗi siêu thị thực phẩm cao cấp này.

Queen Nina là một giống nho bàn cao cấp lai tetraploid được phát triển ban đầu tại Nhật Bản. Trái nho này có kích thước lớn và màu đỏ tươi, với hàm lượng đường cao và độ axit thấp. Nghiên cứu và phát triển về giống Queen Nina, một sự kết hợp giữa Akitsu-20 và Aki Queen, đã bắt đầu tại thị trấn Akitsu vào năm 1992. Vào năm 2011, sau hơn 10 năm chăm sóc, nó đã được đăng ký chính thức theo Luật Bảo vệ và Giống cây trồng của Nhật Bản dưới mã số giống 20733.

Các chùm trái nho Queen Nina có trọng lượng khoảng 500-700 gram, với mỗi trái nho nặng 15-20 gram. Với việc tẩy trái cây cẩn thận và sử dụng axit gibberellic trong quá trình trồng trọt, có thể thu được trái nho không hạt nặng hơn 17 gram. Trái nho có hàm lượng chất rắn tan trong nước là 20-21%, độ axit là 0,4 gram cho mỗi 100 milliliters và hàm lượng đường rất cao lên đến 20%. Hàm lượng chất rắn tan này cao hơn đáng kể so với giống nho Kyoho và Pione, trong khi độ axit thấp hơn nhiều. Trái nho có vỏ mỏng và thịt ngọt với mùi rượu thơm ngon. Trái nho Queen Nina thường chín vào cuối tháng Tám và đầu tháng Chín, trước giống nho Kyoho và một chút muộn hơn giống nho Pione.

Mặc dù giống nho Queen Nina đã được giới thiệu vào Trung Quốc cùng thời điểm với giống Sunshine Rose, nhưng do yêu cầu trồng trọt khó khăn và hạn chế về việc nhập khẩu từ Nhật Bản, nó vẫn đang đứng sau. Sự thụ động nhanh chóng của giống Sunshine Rose đã giúp các kỹ thuật viên nông nghiệp Trung Quốc tăng tốc quá trình địa phương hóa với giống nho Queen Nina. Theo báo chí, đã có thể giải quyết vấn đề phát triển màu sắc khó khăn thông qua nghiên cứu và tối ưu hóa cẩn thận. Ở các vùng như Shaanxi, Vân Nam và Jiangsu, nơi độ cao tương đối cao, sự chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm lớn, nắng nhiều và lượng mưa thấp trong giai đoạn chín mọng, trồng nho Queen Nina đang tiếp tục mở rộng, nhưng tổng sản lượng vẫn thấp hơn 0,1% so với giống Sunshine Rose.

 

Vẻ đẹp hấp dẫn và hương vị ngọt ngào của trái nho Queen Nina đã khiến chúng trở thành một giống rất phổ biến trên thị trường nho cao cấp và giá thị trường đã duy trì ở mức cao. Theo báo chí địa phương, một nông dân từ Shaanxi cho biết giá địa phương đã đạt 140-160 nhân dân tệ (19,51-22,30 đô la Mỹ) cho mỗi kilogram vào năm 2022 và tổng giá trị của vườn trái cây của ông với diện tích 0,67 hecta trong năm đầu đã vượt qua mốc một triệu nhân dân tệ (139.000 đô la Mỹ).

Nguồn: Produce Report

Chuyên mục
Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Tin tức sự kiện Trái cây Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Indonesia Mời Trung Quốc Đầu Tư vào Lĩnh Vực Sầu Riêng

Theo một bài báo trên Jakarta Globe, tổng thống Trung Quốc, Tập Cận Bình vừa gặp gỡ đồng nghiệp Indonesia là Joko Widodo tại Chengdu. Trong cuộc họp, Tổng thống Widodo đề xuất rằng Trung Quốc nên xem xét đầu tư vào việc trồng cây sầu riêng tại Indonesia.

Bộ trưởng Đầu tư chính của Indonesia, Luhut Binsar Pandjaitan, cho biết chính phủ Indonesia hy vọng Trung Quốc sẽ đầu tư vào việc trồng sầu riêng trên diện tích 5.000 hecta tại nước này. Một số vị trí tiềm năng đã được đề xuất cho dự án này. Theo đề xuất, 70% sản lượng sẽ được chuyển đến thị trường Trung Quốc, trong khi Indonesia sẽ giữ lại 30% còn lại.

Luhut cũng nhấn mạnh rằng số lượng sầu riêng nhập khẩu của Trung Quốc đã tăng vượt quá 4 tỷ USD mỗi năm. Nếu Indonesia có thể chiếm 25-40% thị trường này, giá trị có thể tăng lên đến 1,5 tỷ USD. Ông cũng nhấn mạnh sự quan tâm của cơ quan tư vấn Trung Quốc, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển của Hội đồng Nhà nước, đối với dự án này. Các địa điểm có thể Indonesia cung cấp cho dự án bao gồm Bắc Sumatra và đảo Sulawesi.

Trong những năm gần đây, cả lượng và giá trị sầu riêng nhập khẩu vào Trung Quốc đã tăng nhanh chóng. Các nước Đông Nam Á trồng cây này đã thể hiện sự quan tâm đáng kể đối với thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, nguồn cung cấp sầu riêng của Trung Quốc hiện nay vẫn tương đối hạn chế, khi quốc gia này chỉ cho phép nhập khẩu từ Thái Lan, Việt Nam, Philippines và Malaysia

Sản lượng sầu riêng của Indonesia không thua kém so với Thái Lan, với khoảng 1,35 triệu tấn mét năm 2021, chiếm khoảng một phần ba tổng sản lượng trên toàn cầu. Đáng ngạc nhiên, sản lượng xuất khẩu của nước này vẫn tương đối khiêm tốn, chỉ khoảng 500.000 tấn mét. Việc trồng sầu riêng tại Indonesia chủ yếu tập trung tại các tỉnh như Đông Java, Tây Sumatra, Trung Java, Bắc Sumatra và Tây Java, với năm vùng này cùng chiếm 60% tổng sản lượng sầu riêng của Indonesia.

Đến năm 2022, Trung Quốc đã trở thành nguồn đầu tư lớn thứ hai của Indonesia, với tổng đầu tư trực tiếp là 8,2 tỷ USD, chỉ đứng sau Singapore với 13,3 tỷ USD. Với sự mở rộng nhanh chóng của thị trường sầu riêng Trung Quốc, Indonesia đang tích cực nỗ lực để đảm bảo một vị trí quan trọng trong ngành này.

Nguồn: Produce Report