Growthwell Foods, một nhà sản xuất có trụ sở tại Singapore đã huy động được 22 triệu USD trong vòng tài trợ mới nhất. Nhà sản xuất các sản phẩm thay thế thịt và hải sản dựa trên thực vật đã thông báo rằng họ đã huy động được 22 triệu USD trong vòng tài trợ Series A do Creadev dẫn đầu. Có trụ sở tại Singapore, Growthwell Foods đặt mục tiêu mở rộng phát triển kinh doanh và sản xuất bằng cách cung cấp các sản phẩm có nguồn gốc thực vật bền vững và bổ dưỡng. Growthwell cho biết họ cũng đang tăng cường năng lực sản xuất và phân phối thông qua một trung tâm công nghệ toàn diện. Vòng cấp vốn còn có sự tham gia của GGV Capital, Quỹ Iris (Iris Capital và Hanwha, được hỗ trợ bởi Penjana Kapital) và các nhà đầu tư hiện tại Temasek và DSG Consumer Partners. Justin Chou, giám đốc điều hành của Growthwell Foods cho biết: “Chúng tôi vô cùng vui mừng khi có các nhà đầu tư toàn cầu như Creadev và GGV Capital tham gia vào Growthwell khi chúng tôi tìm cách mở rộng hoạt động kinh doanh dinh dưỡng thực vật của mình ra ngoài Đông Nam Á”. Ông nói tiếp: “Chúng tôi rất biết ơn khi có được sự tin tưởng và hỗ trợ liên tục của các nhà đầu tư hiện tại như Temasek và DSG Consumer Partners khi Growthwell tiếp tục củng cố và phát triển đội ngũ hơn nữa ngoài các thành viên trong gia đình. Chúng tôi tin rằng vòng gây quỹ Series A hiện tại của chúng tôi là một trong những vòng gây quỹ lớn nhất trong lĩnh vực công nghệ thực phẩm ở Đông Nam Á và chúng tôi sẽ tiếp tục tiên phong về dinh dưỡng thực vật ở Châu Á.”
Danh mục: AGRITECH
Báo cáo ước tính thị trường tăng trưởng 7%/năm; Châu Á tăng gấp đôi chi tiêu cho thực phẩm lên hơn 8 nghìn tỷ USD vào năm 2030 PwC, Rabobank và Temasek hôm nay đã công bố Báo cáo Thử thách Lương thực Châu Á: đi sâu vào bối cảnh nông nghiệp và thực phẩm của Châu Á.
Báo cáo được đưa ra cùng với Tuần lễ Đổi mới Thực phẩm Nông nghiệp Châu Á-Thái Bình Dương năm nay tại Singapore. Người ta ước tính rằng cần phải đầu tư tích lũy 800 tỷ USD trên mức hiện tại trong 10 năm tới để phát triển ngành nông nghiệp và thực phẩm của châu Á lên quy mô bền vững, để châu Á có thể tự nuôi sống mình. Phần lớn các khoản đầu tư này – khoảng 550 tỷ USD – sẽ đáp ứng các yêu cầu chính về tính bền vững, an toàn, sức khỏe và sự tiện lợi. 250 tỷ USD còn lại sẽ giúp tăng lượng lương thực để nuôi sống dân số ngày càng tăng ở châu Á.
Richard Skinner, Giám đốc Chiến lược & Hoạt động Thỏa thuận Châu Á Thái Bình Dương, PwC Singapore cho biết: “Châu Á đang phải đối mặt với ngã ba đường. Một mặt, tình trạng thiếu đầu tư hiện nay cũng như sự phát triển và sử dụng công nghệ chậm chạp trong chuỗi cung ứng thực phẩm và nông nghiệp đã kìm hãm chúng tôi và khiến chúng tôi phụ thuộc vào người khác. Mặt khác, chúng tôi có thể đảo ngược điều đó bằng cách đi đầu trong đổi mới, đột phá và sử dụng công nghệ, chuyển đổi ngành và mang lại lợi ích cho người tiêu dùng, mang lại lợi nhuận cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư cũng như tạo thêm giá trị việc làm trên khắp châu Á.” Cùng với nhau, các khoản đầu tư sẽ tạo ra mức tăng trưởng thị trường khoảng 7% mỗi năm, trong đó khu vực sẽ tăng hơn gấp đôi tổng chi tiêu cho thực phẩm lên hơn 8 nghìn tỷ USD vào năm 2030. Điều này mang đến cơ hội lớn cho các tập đoàn và nhà đầu tư đầu tư vào Nông nghiệp-Thực phẩm của Châu Á ngành bằng cách tập trung mạnh mẽ hơn vào những đổi mới đầy hứa hẹn có tác động cao.
Khi các quốc gia trên thế giới vật lộn với tình trạng thiếu lương thực và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, báo cáo đề cập đến những thách thức và cơ hội mà ngành Nông nghiệp Thực phẩm Châu Á phải đối mặt. Khu vực này đang đô thị hóa nhanh chóng và đến năm 2030, đây sẽ là nơi sinh sống của khoảng 250 triệu người nữa, những người ngày càng có nhu cầu về thực phẩm lành mạnh có nguồn gốc bền vững và hợp đạo đức.
Ping Chew, Giám đốc RaboResearch, Thực phẩm & Kinh doanh Nông nghiệp, Châu Á của Rabobank, cho biết: “Châu Á cần sự đổi mới và công nghệ để biến hệ thống Thực phẩm Nông nghiệp của mình thành một hệ thống bền vững về mặt sinh thái và kinh tế. Chỉ thông qua việc cùng nhau hợp tác với trách nhiệm chung và hành động ngay từ bây giờ, Châu Á mới có thể tự nuôi sống mình đồng thời bảo tồn hành tinh cho các thế hệ tương lai. Đổi mới để phát triển bền vững cũng có thể mang lại giá trị và có nhiều cơ hội lớn để chuyển sang mô hình bền vững hơn có thể giải quyết vấn đề lãng phí và sự kém hiệu quả của chuỗi cung ứng, tạo ra năng suất cao hơn, tạo nền tảng để kết nối và giới thiệu các sản phẩm và quy trình mới.”
Báo cáo xác định công nghệ là yếu tố hỗ trợ quan trọng trong việc đáp ứng những nhu cầu đang thay đổi này, vốn đòi hỏi sự đầu tư đáng kể trong toàn ngành.
Với sự ra đời của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các công nghệ như dữ liệu lớn, robot, chuỗi khối và Internet vạn vật sẽ cách mạng hóa các phương pháp canh tác truyền thống tốt hơn, giới thiệu các giải pháp nông nghiệp và thực phẩm mới[1].
Từ việc phát triển các loại protein thay thế từ thịt, đến các nhà máy sản xuất thực vật công nghệ cao mang lại mức tăng gấp 400 lần so với các phương pháp truyền thống, đến nuôi trồng thủy sản hiện đại sẽ giảm đáng kể tỷ lệ tử vong của cá và mức độ ô nhiễm để cải thiện sản lượng, đặc biệt là đối với nông dân quy mô nhỏ. tiềm năng lớn để khám phá những đổi mới dựa trên công nghệ này. Tuy nhiên, báo cáo tiết lộ rằng đầu tư vào lĩnh vực Thực phẩm Nông nghiệp của Châu Á đang tụt hậu so với các khu vực khác, đặc biệt là Bắc Mỹ và Tây Âu, một phần do sự đa dạng tuyệt đối của các quốc gia, mức độ phát triển kinh tế và hệ thống quản lý khác nhau. Để vượt qua những thách thức này, cần phải thiết lập sự hợp tác và chia sẻ trách nhiệm lớn hơn giữa khu vực công và tư nhân trong khu vực. Điều này đòi hỏi sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ các chính phủ về các chính sách và luật pháp hỗ trợ các công nghệ và đổi mới mới, cũng như việc thành lập các nhóm đầu tư mạo hiểm và vườn ươm doanh nghiệp. Một cách quan trọng là thành lập các trung tâm đổi mới Nông nghiệp-Thực phẩm để tập hợp những người tham gia thị trường có liên quan trong hệ sinh thái, như Tel Aviv, St Louis, San Francisco và Rotterdam. Các trung tâm hoặc cổng này sẽ yêu cầu khu vực công thúc đẩy môi trường phù hợp cho các công ty khởi nghiệp, tập đoàn và nhà đầu tư, trong đó khu vực tư nhân là động lực quan trọng.
[1] Để biết thêm chi tiết về những công nghệ và đổi mới này, hãy tham khảo Phần 2 của Báo cáo Thử thách Thực phẩm Châu Á: Khai thác Tương lai
Theo AsiaFoodChallenge
Nguồn: Agrifunder
Rót hơn tỷ đồng sản xuất snack dế và bán hơn 10.000 gói trong tháng đầu, Rec Rec ôm mộng phổ cập thực phẩm côn trùng đến người Việt nhưng không dễ.
“Snack (bim bim) luôn bị ‘mang tiếng’ không tốt cho sức khỏe, kém dinh dưỡng. Đây chính là cơ hội cho chúng tôi tạo ra nhánh mới là snack lành mạnh”, Nguyễn Hồng Ngọc Bích (Bicky Nguyen), Đồng sáng lập Rec Rec nói.
Thị trường snack ở Việt Nam có quy mô khoảng 5,81 tỷ USD, theo nền tảng dữ liệu trực tuyến Statista (Đức). Họ hy vọng sẽ được chia phần trong thị trường này nhờ những người thích ăn snack mà phải tốt cho sức khỏe. Thay vì làm bằng tinh bột, Ngọc Bích và những người cùng ý hướng góp tiền sản xuất snack từ thịt dế.
Không phải “tay mơ” trong ngành dế nhưng tham vọng này của Bích vẫn không dễ thực hiện. Cô là Đồng sáng lập kiêm Giám đốc Phát triển kinh doanh CricketOne – nhà sản xuất và xuất khẩu đạm dế bán buôn đến 20 thị trường. Ra đời từ 2017, công ty này là đơn vị thứ hai trên thế giới nhận chứng nhận thực phẩm mới từ Cao Ủy châu Âu, cho phép công ty bán sản phẩm trên toàn EU.
Danh tiếng ở nước ngoài nhưng tên tuổi công ty lại xa lạ với người Việt. Giai đoạn 2016-2018, họ tìm cơ hội thị trường nội địa nhưng không thành. Trở ngại lớn nhất là việc sử dụng côn trùng làm thức ăn không phổ biến. “Chúng tôi từng tiếp cận nhiều công ty thực phẩm để giới thiệu nhưng rất khó đón nhận”, cô nói.
Không từ bỏ ý định bán thịt dế cho người Việt, động lực trỗi dậy khi 2 năm qua, sản lượng xuất khẩu dế nguyên con để làm snack tăng mạnh ở Bắc Mỹ và châu Âu. Tin đây là thời điểm thích hợp để hành động nhưng Bích không thể gõ cửa cầu may các công ty thực phẩm như trước. “Phải có hướng đi táo bạo hơn”, cô tự nhủ.
Vì vậy, họ quyết định tự sản xuất snack dế. Để phân phối, họ hợp tác với sàn thương mại điện tử chuyên về nông sản FoodMap từ tháng 9/2022. Hai bên thống nhất góp một tỷ đồng, tỷ lệ 50-50 để lập nên Rec Rec. Họ cũng đóng góp nhân sự giai đoạn 1 và 2 để làm trực tiếp cùng đội nhân sự độc lập của dự án.
Ban đầu, nhóm sáng lập định làm theo hướng hàng đặc sản. Nhưng sau khi tìm hiểu, họ chọn đánh thẳng vào thị trường snack phổ thông. “Chúng tôi chốt lại làm bài bản từ chuẩn chất lượng, bao bì, hương vị để có thể lên kệ siêu thị cùng các dòng snack hiện có”, Bích nói.
Bắt tay thực hiện, Bích kể, mới biết gian nan. Khó nhất là khâu nghiên cứu phát triển ra sản phẩm hoàn chỉnh, từ hương vị đến diện mạo. Để tìm ra phân khúc, các tình huống sản phẩm được sử dụng, chính sách giá và nhận diện, họ tiến hành nhiều đợt nghiên cứu thị trường với nhiều tập khách hàng và độ tuổi khác nhau.
Kết quả, họ nhận ra ăn vặt là một văn hóa chứ không phải đơn giản chỉ ăn để thỏa mãn cơn đói. “Mọi người có thể và muốn snack mọi lúc, không no hay no cũng snack, buồn hay vui cũng snack, một mình hay nhiều người cũng snack”, Bích kể.
Tuy nhiên, snack ở Việt Nam chủ yếu làm từ tinh bột như khoai tây, bột mì, bột gạo, bột bắp. Sự khác nhau giữa các thương hiệu chỉ xoay quanh việc thay đổi hình dáng, kết cấu và gia vị. Điểm yếu chung là hay bị gắn mác “nghèo dinh dưỡng”.
Dùng dế nguyên con và không dùng dầu thực vật, đội ngũ của Bích cho biết mỗi gói Rec Rec cung cấp 14-15 g đạm tương ứng với một khẩu phần đạm cho một người lớn mỗi bữa ăn, cùng với các vitamin, khoáng chất. Để dễ ăn, họ lắc dế qua 3 vị Wasabi, trứng muối và phô mai.
Snack được sản xuất tại nhà máy của CricketOne, tận dụng cơ sở vật chất và nguồn nguyên liệu sẵn có, công suất tối đa 100.000 túi mỗi tuần. Hiện mỗi tuần CricketOne sản xuất 45 tấn đầu vào mỗi tháng, đến tháng 7 sẽ tăng lên 150 tấn.
Chào sân vào tháng 2/2023, hơn 10.000 gói snack dế được tiêu thụ thông qua các kênh online và mạng xã hội. Hiện chúng còn có trên kệ các cửa hàng offline của Fine Life, BRG, Nam An và tìm đường vào Aeon, Kohnan, Circle K.
Đại diện FoodMap, anh Mai Thanh Thái, đánh giá đây là một sản phẩm mới nhưng được đón nhận đông đảo của người tiêu dùng trẻ, có tư duy cởi mở và lối sống hiện đại. “Điều này được thể hiện qua việc sản phẩm hiện được bán tốt các kênh cửa hàng tiện lợi, siêu thị và kênh online”, anh nói.
Một số nhà bán lẻ cũng bước đầu thấy hiệu ứng. Phía BRG cho biết rất kỳ vọng về sản phẩm đặc thù này với chất lượng bao bì đẹp, khiến người tiêu dùng tò mò.
Tuy nhiên, ngoài chinh phục những người tò mò thì để phổ biến đến số đông vẫn không đơn giản, do xa lạ việc ăn côn trùng. “Khách nội trợ còn sợ và chưa trải nghiệm nhiều”, đại diện chuỗi Finelife nói.
Theo các nhà bán lẻ, sản phẩm phù hợp người ăn “eat clean” (ăn ưu tiên thực vật, ngũ cốc, protein nạc), “keto” (ăn ít carbohydrate và nhiều chất béo tốt) hoặc cần bữa nhẹ khi tập luyện nhưng thương hiệu chưa được nhiều người biết. Ngay tại quầy hàng, kích cỡ bao bì cũng nhỏ hơn các hiệu snack khác nên khó thấy.
Snack dế sấy nguyên con được phủ lên một loại bánh ăn nhẹ để quảng bá.
Thăm dò phản ứng, Ngọc Bích nói 30% người tiêu dùng chào đón và sử dụng sản phẩm, 20% trung lập, và 50% từ chối sử dụng. “Với kết quả này, nhiệm vụ của chúng tôi là phục vụ nhóm 30%, ra mắt sản phẩm mới để chinh phục nhóm 20%, và nhóm 50% thì nên để thị trường dần chinh phục họ”, cô đưa đối sách.
Theo kế hoạch, trong 6 tháng tới, cô sẽ tung mẫu bao bì kích cỡ mới, thêm các hương vị như barbeque, chanh sả ớt, nguyên bản. Tiếp sau đó họ mới làm đến các loại snack từ bột đạm dế. Bản thân sản phẩm chào sân của startup là snack dế sấy nguyên con, mà Bích gọi là “hardcore” (khó) nhất. Vì vậy, nếu khách hàng đón nhận, những sản phẩm từ đạm dế sẽ có khả năng thắng trận cao hơn.
“Rec Rec nên có chương trình ăn thử, và tư vấn về sản phẩm nhấn mạnh các điểm đặc trưng để khách hàng dễ nắm bắt thông tin và tiếp cận sản phẩm nhanh hơn”, Đại diện BRG góp ý.
Statista dự báo thị trường snack tại Việt Nam sẽ tăng trưởng hàng năm 8,93% trong 5 năm tới, đạt quy mô 8,91 tỷ USD vào 2028. FoodMap lạc quan nhu cầu ăn uống lành mạnh ngày càng tăng, giúp tỷ lệ quay lại mua snack dế cao. “Tôi kỳ vọng chỉ tầm khoảng 4-5 năm nữa, việc tiêu thụ các sản phẩm từ dế hoặc các protein thay thế bền vững khác sẽ trở nên rất phổ biến”, Thanh Thái nói.
Đường chinh phục thị trường nội địa chỉ mới bắt đầu nhưng startup này chủ động đặt tầm nhìn quốc tế. Để thăm dò phản ứng, hồi tháng 3, họ gọi vốn cộng đồng 10.000 USD trên nền tảng Indiegogo của Mỹ. Vòng gọi vốn nhanh chóng kết thúc sau 3 ngày với tiền rót từ người dùng 5 quốc gia trong đó có Mỹ, Singapore, Australia.
Tương lai của mô hình snack dế ở Việt Nam vẫn còn khó đoán. Nhưng nhìn sang thị trường lân cận và đi trước như Thái Lan, thách thức cũng không nhỏ. Quốc gia Đông Nam Á này có hơn 20.000 trang trại dế, cung ứng hơn 700 tấn mỗi năm.
Cricket Lab, một công ty thực phẩm từ dế ở Chiang Mai đã tham gia thị trường từ 2018, chia sẻ trên Bangkok Post rằng giá cao và nhận thức cố thủ của của tiêu dùng vẫn là những thách thức chính để mở rộng thị trường.
“Mọi người mua những sản phẩm này vì chúng được làm từ dế, nhưng họ không muốn tưởng tượng những con côn trùng chạy loanh quanh trong tự nhiên”, Radek Husek, Giám đốc tiếp thị của Cricket Lab nói.
Theo ghi nhận của tạp chí FoodNavigator-Asia, Thái Lan cùng với Việt Nam được xem là hai thị trường quen với thức ăn côn trùng ở Đông Nam Á nhưng để côn trùng đứng vào nhóm thực phẩm chính cùng với thịt gia súc gia cầm thì sẽ là thách thức lớn. Đồng giám đốc công ty thực phẩm về dế Cric-Co Nuttathida Tantianon hiểu được điều này nên chọn cách làm snack từ đạm dế, thay vì bắt đầu với nguyên con như Rec Rec.
Nguồn bài viết: Vnexpress
Trước đây, truy xuất nguồn gốc về nông sản không được coi là một yếu tố quan trọng. Thị trường nông sản chủ yếu là thị trường nội địa. Sản phẩm nông nghiệp thường chỉ được tiêu thụ trong phạm vi địa phương hoặc khu vực gần đó. Nhưng trong thời gian gần đây, người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến truy xuất nguồn gốc sản phẩm, tầm quan trọng của việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông nghiệp đã tăng lên đáng kể.
Truy xuất nguồn gốc nông sản là gì?
Truy xuất nguồn gốc nông sản là khả năng theo dõi nhận diện được nguồn gốc một đơn vị nông sản. Qua từng công đoạn của quá trình sản xuất, chế biến, phân phối từ khi gieo giống, chăm sóc, thu hoạch. Cho tới khi sản xuất và phân phối tới tay người tiêu dùng.
Lợi ích của truy xuất nguồn gốc nông sản
Bảo vệ thương hiệu, nâng tầm giá trị thương hiệu của doanh nghiệp
Truy xuất nguồn gốc giúp bảo vệ thương hiệu uy tín. Nâng tầm giá trị của doanh nghiệp một cách hiệu quả. Thực tế không ít các doanh nghiệp bị kẻ xấu lợi dụng. Trà trộn bán hàng kém chất lượng, hàng giả. Hủy hoại niềm tin của người tiêu dùng đối với những sản phẩm mà doanh nghiệp đã gây dựng thương hiệu trước đó. Truy xuất nguồn gốc chính là con đường ngắn nhất. Giúp bảo vệ uy tín doanh nghiệp một cách hiệu quả. Đồng thời truyền tải mọi thông điệp của nhà sản xuất đến tay người tiêu dùng. Tất cả chỉ thông qua một thao tác quét mã đơn giản.
Thể hiện sự minh bạch trong khâu sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Sẵn sàng cung cấp các thông tin trong quá trình sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ. Tăng hiệu quả truyền thông và kinh doanh bảo vệ được sản phẩm.
Bảo vệ công đồng, tẩy chay hàng giả hàng nhái ra khỏi Việt Nam
Việc áp dụng truy xuất nguồn gốc góp phần bảo vệ lợi ích cộng đồng. Đẩy lùi hàng giả hàng nhái ra khỏi thị trường Việt Nam. Đây cũng chính là thông điệp quan trọng, vô cùng có ý nghĩa đối với toàn xã hội.
Tăng tính cạnh tranh, kích thích hành vi mua hàng
Truy xuất nguồn gốc giúp tăng tính cạnh tranh, kích thích hành vi mua hàng. Người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi khắt khe hơn về chất lượng của sản phẩm hàng hóa. Đặc biệt đối với những sản phẩm nông sản. Do vậy, việc áp dụng truy xuất nguồn gốc sẽ góp phần mạnh mẽ trong việc nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp. Trên thị trường trong và ngoài nước, từ đó thúc đẩy doanh số bán hàng.
Giúp người tiêu dùng nhận biết sản phẩm
Người tiêu dùng kiểm tra được thông tin về nguồn gốc sản phẩm. Chất lượng, an toàn thực phẩm đối với sản phẩm nhanh gọn và hiệu quả. Giúp người tiêu dùng nhận biết rõ về thực phẩm sử dụng. Chủ động truy xuất bằng chính mã số trên mỗi sản phẩm. Thao tác đơn giản, trả lời tức thì tại thời điểm xác thực, miễn phí xác thực chống giả.
Giúp nhà quản lý kiểm soát được sản phẩm
Nhà quản lý kiểm soát được sản phẩm, theo dõi được thị trường. Kiểm soát chất lượng, điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm của các cơ sở sản xuất kinh doanh. Hỗ trợ xử lý khi có vấn đề phát sinh (truy xuất nguồn gốc, thu hồi và xử lý thực phẩm…)
Tiết kiệm tối đa chi phí đầu tư hệ thống
Nhiều doanh nghiệp còn băn khoăn khi sử dụng tem truy xuất nguồn gốc vì lo ngại sẽ làm tăng giá đầu vào. Tuy nhiên, thực tế lại hoàn toàn khác. Bởi hầu hết hiện nay các đơn vị cung cấp dịch vụ tem truy xuất nguồn gốc có mức phí khá rẻ. Mỗi con tem thường chỉ có mức giá dưới một nghìn đồng. Trong khi đó, các doanh nghiệp sẽ được cung cấp cả một hệ thống truy xuất nguồn gốc. Tích hợp được những tính năng của hệ thống phần mềm, quản lý kho, quản lý bán hàng. Đây là hai tính năng rất quan trọng và cần thiết đối các doanh nghiệp.
Nền tảng để xuất khẩu hàng hóa đi quốc tế
Việt Nam là một quốc gia có rất nhiều sản phẩm nông sản có giá trị. Tuy nhiên thị phần xuất khẩu ra thị trường quốc tế lại khá thấp. Nguyên nhân chủ yếu là do sản phẩm chưa chứng minh được nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hình thức sản xuất nhỏ lẻ, thiếu tập trung, quy mô và cách thức còn nhiều hạn chế. Việc áp dụng truy xuất nguồn gốc sẽ giúp hỗ trợ các hoạt động xuất khẩu sản phẩm phát triển mạnh mẽ, giúp các doanh nghiệp vươn tầm thế giới.
Các hình thức truy xuất nguồn gốc nông sản
Thứ nhất, sử dụng giấy tờ đóng dấu ký tên (ví dụ chứng từ xuất khẩu, Chứng nhận hàng hóa chuỗi an toàn thực phẩm…). Đối với cách làm này là phương thức làm truyền thống và vẫn còn phổ biến. Tuy nhiên nhược điểm của nó là dễ dàng giả mạo chứng từ và khó kiểm soát.
Thứ hai, truy xuất nguồn gốc điện tử ( thay thế chứng từ giấy tờ , đóng dấu ký tên điện tử , dán tem điện tử … ). Cụ thể phương pháp này được áp dụng các công nghệ nhận diện Barcode , QR , RFID , Vòng , Tem …
Thứ ba, truy xuất nguồn gốc điện tử Blockchain ( lưu trữ dữ liệu phân tán, minh bạch, smart contract …). Với phương thức này minh bạch với đối tác từng khâu trong cả quá trình hình thành sản phẩm.
Quy trình truy xuất nguồn gốc nông sản
Bước 1: Tiến hành khảo sát
Về quy trình sản xuất sản phẩm từ khâu mua nguyên vật liệu cho đến nơi chế biến. Vận chuyển và khi sản phẩm hoàn thiện ra thị trường. Nhà cung cấp giải pháp sẽ theo dõi sát sao từng quá trình, công đoạn. Để hình thành sản phẩm để đảm bảo những thông tin cung cấp tới khách hàng được chính xác và cụ thể nhất.
Bước 2: Tiến hành lên quy trình truy xuất nguồn gốc sản phẩm
Làm sao cho phù hợp với quá trình hoạt động và các quy chuẩn của doanh nghiệp. Đảm bảo khi truy xuất, người tiêu dùng sẽ biết được từng công đoạn, từng thời điểm của quá trình hình thành, chế biến và phân phối.
Bước 3: Xây dựng biểu mẫu truy xuất nguồn gốc
Giúp doanh nghiệp, hộ kinh doanh nhập thông tin sản xuất, nguyên liệu vật liệu sản xuất, chế biến và bảo quản sản phẩm… Dựa vào biểu mẫu này, nhà cung cấp giải pháp sẽ xây dựng sao cho phù hợp với đặc thù của sản phẩm.
Bước 4: Nhà cung cấp thiết lập hệ thống phần mềm
Theo đúng yêu cầu của mỗi doanh nghiệp, hộ kinh doanh để người dùng dễ thực hiện. Cũng như thể hiện đầy đủ thông tin mà doanh nghiệp muốn gửi tới khách hàng.
Bước 5: Đào tạo sử dụng hệ thống phần mềm
Khi sử dụng phần mềm truy xuất nguồn gốc hàng hóa, người dùng sẽ được hướng dẫn. Đào tạo sử dụng hệ thống phần mềm để có thể dễ dàng tiếp cận cũng như sử dụng.
Bước 6: Triển khai áp dụng truy xuất nguồn gốc
Khách hàng tiến hành truy xuất nguồn gốc thông qua hệ thống phần mềm đã xây dựng. Trong quá trình sử dụng, người dùng sẽ liên hệ trực tiếp với tư vấn viên để được tư vấn, hỗ trợ kịp thời.
TTH – Đam mê máy bay không người lái – Drone từ khi còn là sinh viên, Nguyễn Văn Thiên Vũ ôm ấp giấc mơ đưa Drone ứng dụng vào đời sống. Câu chuyện khởi nghiệp Thiên Vũ với đam mê.
Ít ai biết, 8 năm trước, chàng trai 9X Thiên Vũ đã sản xuất được những chiếc drone Made in Viet Nam. Máy bay không người lái do anh làm ra có thể quản lý toàn bộ dữ liệu và tuỳ chỉnh theo yêu cầu của người dùng…
Thăng trầm cùng đam mê
Trên những cánh đồng lúa làng Mậu Tài (Phú Vang), từ nhỏ, Nguyễn Văn Thiên Vũ dành tình yêu đặc biệt với việc nhà nông. Cứ thế, Vũ ấp ủ “đưa ứng dụng công nghệ giúp nông dân phát triển nông nghiệp hiệu quả”.
Bước ngoặt đưa chàng sinh viên Khoa Điện tử – Viễn thông, Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh “bén duyên” với Drone khi nghiên cứu làm đồ án về hệ thống cân bằng trên máy bay không người lái. “Mình rất thích Drone khi nó có tiềm năng ứng dụng vào các lĩnh vực dân dụng, nhất là nông nghiệp và có cơ hội phát triển tại Việt Nam”, Thiên Vũ nhớ lại.
Để có kinh phí “chinh phục” Drone, Vũ đăng thông tin lên các group (nhóm trên các trang mạng xã hội). Rất may, chàng sinh viên năm 3 cùng hai cộng sự được nhà đầu tư chấp nhận “rót” vốn. VSK – một trong những công ty đầu tiên nghiên cứu và sản xuất drone ở Việt Nam ra đời, vào cuối năm 2012.
Cựu học sinh Trường THTP Chuyên Quốc Học hài hước: “Bay thử 10 lần thì hết 9 chuyến phải “lượm xác”. Thời gian phục hồi mất 3 ngày nhưng chỉ test (kiểm tra thử nghiệm) được 3 phút. Nghe suôn sẻ vậy, thực tế “khó ăn” hơn nhiều”.
VSK còn hợp tác với các nhóm liên quan đến truyền sóng, hàng không… cho ra đời những chiếc Drone “made in Viet Nam”. Quá trình thử nghiệm, Vũ đăng tải hình ảnh, video trên cộng đồng Drone thế giới và được một số phòng thí nghiệm của Mỹ mời làm chung. “Thời điểm đó, thế giới có rất nhiều nhóm nghiên cứu phát triển sản phẩm công nghệ này nhưng ở Việt Nam, khái niệm Drone vẫn còn mới mẻ”, Vũ nói.
Năm 2015, Vũ sản xuất Drone phục vụ nông nghiệp. Cùng thời điểm, trên thế giới mới có một vài sản phẩm cùng loại đang thử nghiệm. Tuy vậy, khi so sánh những với sản phẩm của gã “khổng lồ” DJI, dù tất cả tính năng VSK đều làm được nhưng hiệu năng thì không bằng, một số linh kiện phải nhập khẩu nên không cạnh tranh được về giá. VSK quyết định dừng dự án và chuyển hướng phân phối sản phẩm, chỉ sản xuất theo đơn đặt hàng. Song, mọi cố gắng đều không như kỳ vọng. VSK tan rã!
Vũ về Huế đầu quân vào Công ty HBI Huế. Không lâu sau anh nhận ra, bản thân luôn khao khát làm một cái gì đó ý nghĩa hơn. Vũ nghỉ việc. Chàng trai sinh năm 1991 quay về với Drone – nơi anh có thể thoả sức bay lượn.
Bay xa
Tái khởi nghiệp năm 2018, Vũ làm thêm nhiều việc và bán một số tài sản cá nhân. May mắn gặp được nhà đầu tư, Thiên Vũ bắt tay hợp tác thành lập Agras Việt Nam, tập trung phát triển ứng dụng Drone vào công, nông nghiệp, phân phối máy bay không người lái. Đồng thời, cung cấp Drone “made in Viet Nam” cho các cơ quan, doanh nghiệp có nhu cầu bảo mật.
Dù ra đời chưa lâu nhưng Agras được nhiều khách hàng tin tưởng, lựa chọn. Ngoài các công ty lớn, còn có rất nhiều tập đoàn về nông nghiệp, như Hoàng Anh Gia Lai, Bayer, Syngenta, ADC, Lộc Trời… đã và đang ứng dụng phun thuốc bảo vệ thực vật bằng Drone của Agras.
Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Lộc Trời – Huỳnh Văn Thòn ở An Giang cho hay: “Thông qua dự án triển khai thiết bị bay nông nghiệp, chúng tôi mong muốn bảo vệ sức khoẻ nông dân và giữ gìn nguồn tài nguyên nước một cách tốt hơn. Cao hơn là gia tăng lợi nhuận cho những người làm nông nghiệp, xoá đi hình ảnh người nông dân Việt Nam quanh năm chân lấm tay bùn”!
“Tại Thừa Thiên Huế, Drone có thể ứng dụng vẽ mô hình 2D, 3D bản đồ đô thị Huế cũng như hỗ trợ dịch vụ đô thị thông minh trong kiểm soát giao thông, phục vụ nông nghiệp”, Vũ khoe. Mới đây, chàng kỹ sư thuộc hàng top các kỹ sư về Drone ở Việt Nam đã có buổi làm việc với Trường đại học Nông lâm về dự án phát triển nông nghiệp ở Huế, giới thiệu đưa Drone vào ứng dụng trong chăm sóc cây đặc sản thanh trà.
Hành trình liều lĩnh, đầy đam mê với Drone của Nguyễn Văn Thiên Vũ đánh dấu bằng những thành công ấn tượng: 28 tuổi, Vũ đang là Giám đốc điều hành-CEO của Agras Việt Nam và Giám đốc Kỹ thuật của August Star Việt Nam; đồng thời, chàng trai 9x cũng mới lập thêm 2 công ty về Drone.
Trụ sở chính của các công ty đặt ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, đồng thời đang mở rộng chi nhánh về Cần Thơ, Kiên Giang, Long An và tới đây là Huế. Đội ngũ 20 nhân viên do Vũ quản lý trực tiếp cùng 20 đại lý đối tác ở các tỉnh. Agras Việt Nam cũng đã phân phối, đào tạo, chuyển giao công nghệ cho một số công ty ở Lào và Campuchia, tiến tới mở chi nhánh tại 2 nước này và hiện, CEO Agras Việt Nam đang đàm phán với đối tác của Lào để nhận dự án cung cấp dịch vụ phun thuốc bảo vệ thực vật cho 10 ngàn ha lúa nước…
Trong phiên gọi vốn đầu tư trực tiếp – Pitching do Viện Nghiên cứu phát triển tỉnh phối hợp tổ chức trong khuôn khổ Techfest Hue 2019 ngày 24/11, Thiên Vũ tham gia gọi vốn cho dự án “Ứng dụng máy bay không người lái trong công-nông nghiệp” triển khai tại miền Trung và được các nhà đầu tư đánh giá cao. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phan Thiên Định bày tỏ: “Đây là vấn đề tỉnh quan tâm. Chúng tôi sẽ làm việc với Sở NN&PTNT cùng các nhà đầu tư nông nghiệp tại Huế để có sự phối hợp giữa các bên và Agras có thể phát triển hoạt động này trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”.
Dịch vụ Drone toàn cầu ước tính đạt 127 tỷ USD vào năm 2020, trong đó lớn nhất là hạ tầng, nông nghiệp, vận tải, an ninh, truyền thông, bảo hiểm, viễn thông, khai thác mỏ… Ở Mỹ hay Trung Quốc, số lượng công ty tham gia vào lĩnh vực máy bay không người lái lên tới hàng trăm, hàng nghìn trong khi Việt Nam mới đếm trên đầu ngón tay.
Nguồn: Liên Minh – Báo Thừa Thiên Huế.
Efishery, được đồng sáng lập bởi một cư dân trong khu lao động nghèo ở Jakarta, đã trở thành kỳ lân hiếm hoi của Indonesia sau khi huy động thêm 200 triệu USD.
Gibran Huzaifah, Giám đốc điều hành và là đồng sáng lập của startup Efishery, cho biết giá trị của công ty khởi nghiệp công nghệ nông nghiệp này đã đạt 1,4 tỷ USD sau vòng gọi vốn Series D do 42XFund dẫn dắt, gấp hơn ba lần định giá trước đó là 410 triệu USD năm 2022. Kumpulan Wang Persaraan – quỹ hưu trí nhà nước của Malaysia, ResponsAbility Investments AG và 500 Global cũng tham gia vào vòng này, cùng với những cổ đông hiện tại gồm Northstar Group, Temasek Holdings và SoftBank Group.
Công ty này hiện phục vụ 70.000 người nuôi cá và tôm ở Indonesia, đã vượt mốc định giá 1 tỷ đôla Mỹ trong một năm mà làn sóng sa thải nhân viên, CEO từ chức và định giá lao dốc, trở thành tâm điểm của lĩnh vực công nghệ. Các nền kinh tế chậm lại, lãi suất tăng và mức lạm phát cao hơn đã khiến các nhà đầu tư mạo hiểm trên toàn cầu trở nên thận trọng.
Huzaifah, 33 tuổi, lớn lên gần khu ổ chuột ở phía đông Jakarta, là con trai của một quản đốc công trường xây dựng và một người nội trợ. Mẹ anh, người chưa học hết cấp ba, đã thúc giục anh phải theo đuổi việc học. Và Huzaifah đã xuất sắc trong học tập, cuối cùng đăng ký vào Học viện công nghệ Bandung, một trường đại học tốt nhất ở Indonesia, chuyên ngành sinh học.
Nhưng khi Huzaifah vào đại học, tình hình tài chính của gia đình trở nên tồi tệ hơn sau khi cha anh mất việc. Ở một thành phố mới, không có tiền từ gia đình và người quen gửi lên, Huzaifah phải tìm nơi trú ẩn để ngủ hàng đêm, đôi khi là khuôn viên trường hoặc một nhà thờ Hồi giáo. Một lần, Huzaifah đã phải nhịn ăn trong ba ngày.
Gibran Huzaifah tại một trang trại cá ở Subang Regency, West Java, Indonesia. Ảnh: Bloomberg
Trong một lần tình cờ, Huzaifah tham gia một lớp học về nuôi trồng thủy sản. Anh bị cuốn hút bởi những bài giảng của giáo sư về việc nuôi cá da trơn. Huzaifah tin chắc rằng thủy sản sẽ là tương lai của thực phẩm và quan trọng hơn là con đường thoát khỏi cảnh túng quẫn. Anh lập tức thuê một cái ao để nuôi cá da trơn. Ba năm sau (năm 2012), Huzaifah đã vận hành 76 ao cá.
Trong thời gian đó, Huzaifah đã trực tiếp trải nghiệm những thách thức của ngành, chẳng hạn như tỷ suất lợi nhuận rất thấp do chi phí thức ăn chiếm quá cao và giá cá thấp do những khâu trung gian. Với sự giúp đỡ từ một người bạn có kiến thức nền tảng về công nghệ, anh chế tạo một nguyên mẫu máy cho cá ăn tự động sử dụng công nghệ Internet-of-Things (IoT) để loại bỏ vấn đề cá ăn quá nhiều hoặc quá ít.
Sau đó, năm 2013, Huzaifah và bạn ra mắt eFishery. Cách tiếp cận của anh có hai hướng: làm điều gì đó bạn hiểu và không chạy theo đám đông.
Cách Jakarta ba giờ chạy xe về phía đông, đi qua những cánh đồng lúa và những túp lều bằng tôn, tiếng ồn ào của cuộc sống làng quê cứ vài phút lại bị gián đoạn bởi một hệ thống robot tự động phun ra hàng trăm viên thức ăn vào miệng những con cá đói đang chờ đợi trong một hồ bằng bê tông. Nó có thể không phải là Thung lũng Silicon, nhưng thiết bị này là chìa khóa cho sự mở rộng nhanh chóng của công ty khởi nghiệp eFishery, nhằm mục đích cách mạng hóa hoạt động kinh doanh nuôi trồng thủy sản hàng thế kỷ.
eFishery được xây dựng theo mô hình một startup về công nghệ nông nghiệp. Với một khoản phí hàng tháng, công ty cung cấp cho nông dân một máy phân phối thức ăn viên tự động dựa trên dữ liệu từ hàng nghìn người dùng. Khách hàng mua thức ăn và bán hàng với giá cao hơn thông qua một ứng dụng trên điện thoại thông minh.
eFishery cũng bán cá với số lượng lớn cho những người mua nhiều. Kể từ đó, hoạt động kinh doanh của công ty đã phát triển, với hai phân khúc riêng biệt là dành cho người nuôi và dành cho người mua cá và tôm. Công ty này cũng làm việc với một số tổ chức tài chính để cung cấp tài chính cho người nông dân.
Là một trong số các nhà đầu tư đồng hành trong vòng gọi vốn, Temasek giúp eFishery mở rộng, bao gồm đề xuất các giám đốc điều hành tiềm năng và các đối tác quan trọng ở Ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam. Mỗi năm, Huzaifah nói chuyện với Dilhan Pillay – Giám đốc điều hành của Temasek, bốn lần – đây là mức độ hỗ trợ cực kỳ cao cho một khoản đầu tư nhỏ như eFishery.
Sau vòng gọi vốn mới nhất, cổ phần của Huzaifah và người đồng sáng lập trị giá hơn 100 triệu USD mỗi người. Huzaifah cho biết cuộc sống của anh không thay đổi nhiều. Tuy nhiên, anh vẫn “cảm giác thật tuyệt vì không cần phải lo lắng về những rắc rối tài chính đã trải qua khi lớn lên”.
Với khoản tiền gọi vốn mới, CEO Efishery cho biết trong một cuộc phỏng vấn rằng họ có kế hoạch sử dụng số tiền này để mở rộng hoạt động ở Indonesia và Ấn Độ trước khi theo đuổi đợt chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) ở Mỹ hoặc Indonesia trong hai năm.
“Chúng tôi muốn trở thành công ty dẫn đầu toàn cầu trong vòng 5 năm tới và tiến hành IPO vào một thời điểm nào đó. Sớm nhất sẽ là năm 2025”, Huzaifah nói.
theo Bloomberg
Các nghiên cứu gần đây cho biết, để đảm bảo nguồn lương thực cho dân số thế giới thì sản lượng của ngành nông nghiệp phải tăng thêm 60% vào năm 2030. Điều này đòi hỏi người nông dân cũng như nhà sản xuất thực phẩm cần đón nhận các xu hướng chuyển đổi kỹ thuật số trong nông nghiệp bằng cách sử dụng công nghệ như một nguồn tài nguyên bền vững, đưa nông nghiệp lên một tầm cao mới.
Theo GS. TSKH Trần Duy Quý – Chủ tịch Hội Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam, giới thiệu 5 công nghệ tiên tiến ứng dụng trong nông nghiệp thông minh đang được sử dụng hiệu quả.
Ứng dụng công nghệ thông tin
Đây là việc sử dụng ứng dụng cảm biến kết nối vạn vật (IoT Sensor). Các thiết bị cảm biến được kết nối với các thiết bị thông minh, được điều khiển tự động trong suốt quá trình sản xuất nông nghiệp ứng phó với biến đổi khí hậu và cải thiện khí hậu trong nhà kính.
Sử dụng công nghệ mã vạch kép để quản lý quá trình sản xuất từ đầu vào, quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng vật nuôi, nguồn gốc xuất xứ cho đến đầu ra thành các sản phẩm chuyên dùng. Các giải pháp IoT hầu hết tập trung vào việc giúp người nông dân tiếp cận với chuỗi cung ứng sản xuất nhanh và dễ dàng hơn, bằng cách đảm bảo năng suất, tăng lợi nhuận và bảo vệ môi trường.
Các phân tích kinh doanh đã chỉ ra rằng, số lượng thiết bị IoT trong ngành nông nghiệp toàn cầu chạm ngưỡng 70 triệu trong năm 2020, đạt tốc độ tăng trưởng 20% hàng năm. Quy mô của nông nghiệp thông minh toàn cầu được dự đoán sẽ tăng gấp 3 lần trước năm 2025, ở mức 15.3 tỷ USD (so với 5 tỷ USD vào năm 2016).
Công nghệ vật liệu mới
Đây là việc sử dụng các vật liệu mới như khung thép nặng được thay bằng các khung nhựa polymer có độ bền hơn thép; kính được thay bằng các micar trong suốt có độ bền rất cao mà không bị vỡ; các vòi phun nước phun sương bằng nhựa cao cấp thay vòi đồng và thép bị han rỉ; các giàn và chậu trồng cây được thay bằng các hộ nhựa chậu nhựa vừa có giá cả hợp lí, vừa bền và nhẹ.
Sử dụng hệ thống đèn LED đồng bộ trong canh tác kĩ thuật cao để tối ưu hóa quá trình sinh trưởng và phát triển thay thế cho đèn chiếu sáng bình thường nhằm tiết kiệm điện năng và tăng hiệu suất quang hợp.
Các giá thể nhẹ tơi xốp chứa dinh dưỡng đã được xử lí để thay cho đất trong cây tránh sâu bệnh, hay dùng công nghệ thủy canh khí canh nhằm cách ly môi trường tự nhiên chủ động ứng dụng đồng bộ công nghệ.
Tế bào quang điện (Solar cells) nhằm sử dụng hiệu quả không gian, giảm chi phí năng lượng hầu hết các thiết bị trong trang trại/doanh nghiệp hay các vườn lớn được cung cấp điện mặt trời và các bộ pin điện mặt trời.
Công nghệ robot và tự động hóa
Đó là việc sử dụng nhiều khâu trong sản xuất, thu hoạch và chế biến được sử dụng người máy thay cho người chăm sóc cây trồng vật nuôi ngày càng phổ biến ở những nơi thiếu nhân lực hay nhân công giá quá cao.
Sử dụng các thiết bị bay không người lái và các vệ tinh thu thập dữ liệu của các trang trại nhà vườn để phân tích và đưa ra khuyến nghị nhằm quản lí trang trại tốt hơn. Hiện nay, ngành nông nghiệp đã cập nhật thiết bị bay không người lái để gieo hạt giống, phun thuốc trứ sâu, phun phân bón, vẽ bản đồ các thửa ruộng, dự báo tình trạng sạt lở đất, phá rừng, cháy rừng…
Sử dụng thiết bị tưới tiêu tự động hóa phun sương khi nhiệt độ trong vườn quá cao và độ ẩm xuống thấp. Những con robot trong lĩnh vực nông nghiệp đang gia tăng năng lực sản xuất cho nông dân bằng nhiều cách khác nhau.
Thực tế cho thấy, ở các trang trại chăn nuôi bò sữa, các hệ thống robot hiện nay thường được triển khai để vắt sữa. Dù robot chỉ chịu trách nhiệm một tỷ lệ nhỏ trong toàn bộ quá trình chăn nuôi lấy sữa, nhưng Liên minh châu Âu đã dự đoán rằng khoảng 50% tổng đàn gia súc châu Âu sẽ được vắt sữa bằng robot vào năm 2025.
Công nghệ sinh học
Việc sử dụng các giống cây trồng vật nuôi mới được tạo ra bằng công nghệ sinh học như nuôi cấy mô tế bào, chỉnh sửa những khiếm khuyết của hệ gen.
Sử dụng các loại chất điều hòa sinh trưởng phát triển có nguồn gốc thiên nhiên và từ công nghệ vi sinh hay lên men sinh học như GA3, NAA, các Axit Amin, các vitamin B1, B6, B12….
Sử dụng các phân hữu cơ và thuốc trừ sâu sinh học như abamertin, BT, nấm đối kháng Bauveria, các màng sinh học để lọc khí khử trùng; các bộ kit chuẩn đoán bệnh cây, gia súc gia cầm và thủy sản, các chế phẩm làm sạch môi trường chuồng trại, ao nuôi, bể cá ; các chế phẩm sinh học để bảo quản rau hoa quả tươi lâu và bảo đảm chất lương trong quá trình sơ chế bảo quả và chế biến….
Đáng chú ý, các chế phẩm sinh học kết hợp với công nghệ nano làm tăng hiệu quả sử dụng. Ví dụ, dạng phân bón nano mới có thể thay thế việc chiếu cho cây thanh long, cây hoa cúc khi ra hoa, giảm được chi phi sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế rất cao.
Công nghệ trí tuệ nhân tạo
Sử dụng ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo có thể tạo ra nhiều phần mềm và máy móc để thu thập thông tin kết nối vạn vật, xử lí dữ liệu lớn (Big Data), qua đó, đưa ra các phương án quản lí sản xuất theo hướng nông nghiệp hữu cơ một cách an toàn từ vườn sản xuất đến bàn ăn.
Các nước tiên tiến đang triệt để sử dụng công nghệ này vào việc quản lí sản xuất cây trồng vật nuôi, thu hoạch, bảo quản và chế biến chúng trong nền nông nghiệp thông minh, đem lại hiệu quả kinh tế, môi trường hòa hợp với thiên nhiên.
Trí tuệ nhân tạo được tích hợp trên các thiết bị máy bay không người lái tuy đã được thử nghiệm và áp dụng từ lâu, nhưng chỉ mới được áp dụng vào lĩnh vực nông nghiệp thời gian gần đây. Tuy nhiên, điều này đã giúp cho việc tăng tốc độ phun thuốc trừ sâu cho cây lên gấp 5 lần so với các loại máy móc khác và hoạt động gieo trồng bằng máy bay giúp giảm đáng kể chi phí lao động cho hoạt động trồng trọt so với cách truyền thống.
Theo: Hà Anh – ICT
Ngành nông nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức như thiên tai, ô nhiễm nguồn nước và điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
Ngành nông nghiệp nói chung đang phải đối mặt với chi phí sản xuất tăng cao, tình trạng thiếu lao động, quản lý đất đai kém hiệu quả, lãng phí thực phẩm và người tiêu dùng đòi hỏi sự minh bạch về nguồn gốc thực phẩm của họ.
Các công ty khởi nghiệp công nghệ nông nghiệp tại Việt Nam và trên thế giới đang đối phó với những thách thức này bằng cách phát triển các giải pháp thân thiện với môi trường, giá cả phải chăng và dễ dàng tích hợp. Các công ty khởi nghiệp cũng không ngừng nỗ lực để thu hẹp khoảng cách trong việc tiếp cận thực phẩm, nước sạch và nhu cầu về chế độ ăn uống
Thống kê cho thấy, ngành nông nghiệp Việt Nam chiếm 14,85% GDP cả nước vào năm 2020 và cung cấp 39,45% tổng số việc làm trên cả nước. Với xu hướng phát triển của ngành nông nghiệp, việc các startup agritech tạo ra nhiều công cụ sáng tạo hơn để duy trì an ninh lương thực tại Việt Nam sẽ không còn xa nữa.
Dưới đây là 5 startup công nghệ nông nghiệp Việt Nam được techcollectivesea.com đánh giá đang hỗ trợ tích cực cho phát triển nông nghiệp bền vững:
Demeter được Phạm Ngọc Anh Tùng thành lập năm 2017 sau khi thực hiện dự án nông nghiệp trị giá 4,4 triệu USD tại TP.HCM. Hồ Chí Minh.
Với đội ngũ kỹ sư trẻ kết hợp với sự cộng tác của các chuyên gia nông nghiệp hàng đầu đến từ Israel, Nhật Bản, Mỹ và Thái Lan, sứ mệnh của Demeter là giúp người nông dân Việt Nam tiếp cận những quy trình hiệu quả nhất. quản lý và thiết bị công nghệ hiện đại của thế giới với chi phí hợp lý, từ đó gia tăng giá trị cho nông sản Việt Nam, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế để có thể cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Công ty ban đầu đã phát triển một hệ thống dựa trên IoT tại trang trại Cầu Đất, với sự hỗ trợ từ một số trang trại quốc tế. Hệ thống cho phép nông dân tự động hóa các hoạt động của họ, giúp họ giảm thiểu sự tham gia của con người, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, đồng thời quản lý hiệu quả trang trại của họ.
Hệ thống IoT của Demeter bao gồm 3 phần chính. Phần thứ nhất mang tên Connected Edge, chịu trách nhiệm điều khiển hệ thống tưới tiêu, máy bơm, máy bay không người lái, hệ thống vi khí hậu, hệ thống camera, hệ thống trạm thời tiết và hệ thống cảm biến. Phần thứ hai xử lý việc lưu trữ và phân tích dữ liệu thành thông tin trên đám mây, trong khi phần thứ ba xác định các tác vụ sử dụng thông tin.
Theo Demeter, năm 2017, Demeter trở thành đối tác của Tập đoàn Intel về IoT cho nông nghiệp. Demeter đang tìm cách mở rộng dịch vụ của mình sang Singapore, Thái Lan và Indonesia.
MimosaTEK
Được thành lập từ năm 2014 với mục tiêu nâng tầm kinh nghiệm làm nông truyền thống trên nền tảng công nghệ 4.0, MimosaTEK mong muốn tạo ra những mô hình canh tác bền vững hơn, nơi người nông dân có thể: Sử dụng ít tài nguyên hơn nhưng tạo ra nhiều sản lượng hơn trên cùng một diện tích sản xuất; Được giải phóng khỏi công việc nặng nhọc hàng ngày để dành nhiều thời gian hơn cho gia đình và các hoạt động xã hội.
Theo đó, MimosaTEK đã tập trung vào việc sử dụng nông nghiệp chính xác để cải thiện các phương thức canh tác hiện có ở Việt Nam, hầu hết dựa trên kinh nghiệm và thủ công. MimosaTEK sở hữu hệ thống điện toán đám mây cho phép người nông dân tự động hóa và quản lý trang trại của mình bằng các cảm biến giám sát môi trường, gửi tín hiệu qua sóng tần số vô tuyến và thông báo cho người nông dân. nông dân về các yếu tố môi trường độc hại.
Hệ thống này cũng cho phép nông dân theo dõi tiến độ cây trồng, tạo cơ sở dữ liệu cây trồng và tưới nước từ xa cho trang trại của họ thông qua thiết bị di động. Với hệ thống này, nông dân có thể lập kế hoạch và quản lý trang trại của mình bằng cách sử dụng dữ liệu từ cơ sở dữ liệu môi trường và cây trồng. Với những ý tưởng sáng tạo của mình, MimosaTEK là một trong 10 công ty trên toàn thế giới nhận giải thưởng Đảm bảo Nước sạch cho Thực phẩm do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) trao tặng. 2017.
Hachi
Được thành lập vào năm 2016, Hachi phát triển các hệ thống canh tác thủy canh dựa trên IoT cho nông nghiệp hộ gia đình và đô thị. Hachi ra đời từ dự án khởi nghiệp của thanh niên Học viện Nông nghiệp Việt Nam và Đại học Bách khoa Hà Nội với số vốn 100 triệu đồng.
Các hệ thống của công ty bao gồm tưới nước tự động, quạt tự động và cài đặt sương mù được hỗ trợ bởi các cảm biến môi trường và cấu trúc lưới tự động bảo vệ cây trồng khỏi ánh nắng mặt trời.
So với cách trồng rau truyền thống, hệ thống của Hachi cần ít đất và ánh sáng hơn. Nó cũng ít phải tốn công chăm sóc bởi người nông dân chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh là có thể trồng rau sạch tại nhà.
Hachi đang tìm cách áp dụng hệ thống tưới nhỏ giọt vì nó giúp nông dân tiết kiệm tiền bằng cách giảm lượng nước và phân bón cần thiết để trồng trọt.
Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới về Đông Nam Á (WEF ASEAN) 2018, Hachi lọt top 7 startup nổi bật.
Sero.ai
Sero.ai là một công ty khởi nghiệp nông nghiệp trí tuệ nhân tạo (AI) giúp nông dân giải quyết các thách thức trong sản xuất cây trồng bằng cách tạo ra một nền tảng kết nối nông dân và các chuyên gia. Nông dân được khuyến khích chụp ảnh cây bị bệnh và tải ảnh lên nền tảng. Công nghệ thị giác máy tính giúp người dùng xác định bệnh và đề xuất giải pháp.
Sero.ai, ra mắt vào năm 2016, nhằm mục đích trở thành một công ty thông tin cây trồng thu thập dữ liệu thời gian thực trong các giai đoạn tăng trưởng của cây trồng bằng cách sử dụng hình ảnh và cảm biến để đưa ra khuyến nghị phòng ngừa cho nông dân.
Startup này đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư và khách hàng tiềm năng về công nghệ nông nghiệp.
Naturally Vietnam
Naturally Vietnam là startup công nghệ nông nghiệp có trụ sở tại Hà Nội được thành lập bởi vợ chồng Mai và Patrice Gautier nhằm mang lại sự minh bạch hơn cho thị trường thực phẩm. Natatural Việt Nam cung cấp một cửa hàng tạp hóa trực tuyến, nơi mọi người có thể mua các sản phẩm thực phẩm có thể truy xuất nguồn gốc từ 6 trang trại ở huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
Công ty đã nhận được khoản đầu tư hạt giống hơn 2.000 đô la để giúp các cá nhân xây dựng trang trại từ đầu để đạt được điều này. Các trang trại được giám sát bởi bác sĩ thú y, sử dụng các quy trình hữu cơ và sản xuất thực phẩm có nguồn gốc. Natural Việt Nam cũng có kế hoạch bắt đầu chương trình với Chợ đêm cuối tuần Hà Nội, nơi người tiêu dùng có thể nếm thử thực phẩm từ các nhà sản xuất địa phương, từ đó xây dựng mối quan hệ bền chặt hơn giữa hai bên.
Theo techcollectivesea, ngành nông nghiệp Việt Nam đang bùng nổ và có thể đón đầu những xu hướng nông nghiệp mới trong tương lai. Các startup công nghệ nông nghiệp Việt Nam đã và đang khai thác các hướng sáng tạo để chuyển đổi phương thức canh tác. Họ cũng đang tìm cách mở rộng sang các quốc gia khác ở Đông Nam Á. Theo đó, con đường phía trước của các startup công nghệ nông nghiệp Việt Nam là một chặng đường đầy hứa hẹn.
Chỉ sau hơn hai năm ra mắt, startup FoodMap Asia chuyên về thương mại điện tử nông sản được quỹ ngoại Wavemaker – Partner đầu tư đã ghi nhận phát triển với doanh số tăng gần 500% và tốc độ tăng trưởng nhân sự hơn 200% trong một năm.
Bạn có thể tóm tắt nhanh về quá trình hình thành, phát triển của FoodMap?
FoodMap thành lập 12.2018, ban đầu là website tập trung bán hàng nông sản Việt rồi dần phát triển đến nay trở thành một hệ sinh thái đa dạng từ kênh bán hàng, cung cấp dịch vụ cho nhà sản xuất và truyền thông trong lĩnh vực nông nghiệp. Có thể nói hiện tại FoodMap là một trong những thương hiệu hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực thương mại điện tử Nông sản và nhà cung cấp nông sản uy tín cho những đối tác lớn. FoodMap ra đời với xuất phát từ con số 0 tròn trĩnh : không vốn, văn phòng 20m2 đi mượn, website, công nợ hàng hoá được nhà cung hỗ trợ, tài sản quý giá nhất của FoodMap từ trước đến nay đó chính là niềm đam mê vô hạn các sản phẩm nông sản Việt và sự am hiểu sâu sắc thị trường nông nghiệp Việt Nam của các thành viên sáng lập.
Điều gì theo bạn là thử thách nhất khi tham gia ngành nông nghiệp, đặc biệt ứng dụng công nghệ để gia tăng giá trị chuỗi cung ứng nông nghiệp?
Nông nghiệp là một ngành rất đặc thù, truyền thống – đặc biệt là những quốc gia như Việt Nam. Dù có dùng bất cứ công nghệ gì ứng dụng vào nông nghiệp thì cũng cần xuất phát từ góc nhìn nhà sản xuất, người nông dân và người tiêu dùng. Cho nên việc số hoá hay ứng dụng công nghệ vào nông nghiệp cần làm từ từ, có nhiều giai đoạn và chỉ phù hợp với một vài mắc xích trong chuỗi cung ứng. Vừa cần có tư duy hiện đại, vừa phải am hiểu vận hành truyền thống ngành nông sản thì mới có thể ứng dụng nhuần nhuyễn được. Quan điểm của FoodMap để đi bền vững trong ngành này cần xây dựng chiến lược gần khách hàng và nhà cung cấp nhất có thể.
Trong đợt dịch lần thứ 4 này, rất nhiều doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng, tuy nhiên Foodmap lại tăng trưởng mạnh. Bạn có thể chia sẻ thêm câu chuyện FoodMap được không?
Đối với FoodMap may mắn hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử và ngành nhu yếu phẩm, nông sản thiết yếu nên phạm vi ảnh hưởng không lớn. Tuy nhiên nhiều nguồn cung bị đứt gãy, việc gia tăng đột biến lượng đơn hàng gấp 20 lần bình thường mà vẫn đảm bảo được sự cung ứng hàng hóa chất lượng, an toàn trong mùa dịch mà không vỡ về vận hành là một thử rất thách lớn. Rất may mắn đội ngũ FoodMap đã có kinh nghiệm chinh chiến nông sản online trong hơn hai năm qua cùng dự đoán tình hình sớm nên đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng.
Ngoài việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng của doanh nghiệp thì nghĩa vụ hỗ trợ cộng đồng, đảm bảo cung ứng hàng hóa giá hợp lý cho người tiêu dùng được FoodMap đặt lên hàng đầu. Lợi nhuận có thể quan trọng với một doanh nghiệp nhưng trong giai đoạn này điều đó là thứ yếu. Hỗ trợ cộng đồng trong những lúc khó khăn và để lại những giá trị tốt đẹp, bền vững cho xã hội mới chính là lý do FoodMap được sinh ra và là kim chỉ nam cho sự phát triển của FoodMap trong những giai đoạn sắp tới.
Bạn có thể chia sẻ những dự định của FoodMap trong thời gian tới?
Trong năm 2021 vừa rồi, FoodMap đã xuất khẩu vài mặt hàng nông sản với giá trị cao đi Singapore, Malaysia và hy vọng sẽ đẩy mạnh hơn trong thời gian tới. FoodMap cũng đã đi cùng với nhiều đối tác lớn như Lazada, Tiki, Grab, Vietjet Cargo … , cục Thương Mại Điện Tử, Cục Xúc Tiến Thương Mại và các hiệp hội lớn nông nghiệp Việt nam như BSA, VIDA, VASEP,… để cùng chạy những dự án lớn và đồng hành tiêu thụ nông sản cùng bà con nông dân trên khắp Việt Nam. FoodMap cũng đã cho ra mắt nền tảng truy xuất nguồn gốc, kênh truyền thông về nông sản cũng như kênh bán sỉ B2B khá thành công. Như đã chia sẻ, FoodMap được sinh ra không chỉ phải là một kênh bán hàng cho nông sản Việt mà hơn thế chúng tôi muốn thay đổi một điều gì đó lớn lao hơn ngành Nông nghiệp của Việt Nam. Foodmap tin rằng nếu sản phẩm Việt được ủng hộ bởi người Việt thì đây là bệ phóng vững chắc nhất cho nông sản Việt tiến ra thế giới.
Để làm được điều đó, FoodMap cũng đang gấp rút bổ sung nguồn lực và cũng đang trong giai đoạn mới của việc gọi vốn vòng pre Series A lần này. Hy vọng đây sẽ là bước đệm cho sự tăng trưởng đột phá của FoodMap trong vòng 2 năm tới.
Nguồn tham khảo: https://cafebiz.vn/foodmap-ngoi-sao-sang-trong-nganh-thuong-mai-dien-tu-nong-san-viet-nam-20210719172941186.chn