Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Tập huấn an toàn thực phẩm cho nông dân huyện Thường Tín

Gần đây, Hội Nông dân ở Thường Tín đã hợp tác cùng Hội Nông dân TP Hà Nội để đào tạo hơn 100 cán bộ và thành viên về đề an toàn thực phẩm.buoi-truyen-dat-kien-tthuc

Buổi Tập Huấn An Toàn Thực Phẩm Dưới Sự Chủ Trì của Ông Nguyễn Thanh Xuân

Ông Nguyễn Thanh Xuân, Phó Chủ tịch Hội Nông dân TP Hà Nội, đã chủ trì buổi tập huấn trực tiếp với chủ đề “Phòng chống ngộ độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm”. Buổi đào tạo tập trung vào 7 vấn đề quan trọng, bao gồm việc nâng cao nhận thức về an toàn thực phẩm, hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng trong quá trình mua bán thực phẩm, cũng như các nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa ngộ độc thực phẩm. Ông Xuân cũng chia sẻ kiến thức về triệu chứng ngộ độc, nguyên tắc chế biến thực phẩm an toàn, và cách lựa chọn thực phẩm đường phố.

Sự hiểu biết được hội viên nông dân tích lũy từ buổi tập huấn không chỉ đảm bảo sức khỏe cá nhân mà còn góp phần bảo vệ sức khỏe của gia đình và cộng đồng. Quan trọng là việc lan truyền phương pháp lựa chọn thực phẩm an toàn, khuyến khích thói quen mua sắm thông minh với việc xác định nguồn gốc, phân biệt giữa “thực phẩm sạch” và “thực phẩm bẩn”, cùng việc áp dụng cách bảo quản và chế biến thực phẩm tốt cho sức khỏe. Điều này không chỉ giúp ngăn chặn bệnh lây lan qua thực phẩm mà còn đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng.

Quy Trình An Toàn Thực Phẩm ở Thường Tín: Hợp Tác Nông Dân và Tập Huấn Đồng Bộ

Quy trình đảm bảo an toàn thực phẩm tại huyện Thường Tín bắt nguồn từ khâu sản xuất. Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật thường xuyên phối hợp với Hội phụ nữ các xã để mở lớp tập huấn kiến thức trồng rau củ quả. Hội viên nông dân được đào tạo về kỹ thuật trồng an toàn theo chuẩn VietGAP và hữu cơ, đồng thời nắm vững cách ghi chép sổ nhật ký sản xuất. Quy trình này giúp họ hiểu rõ lợi ích của việc sản xuất an toàn đối với sức khỏe cá nhân, cộng đồng, và người tiêu dùng. Việc không sử dụng thuốc BVTV cấm và độc hại được thúc đẩy, thay vào đó là việc áp dụng các loại thuốc BVTV sinh học và an toàn, cùng với cách ly đầy đủ trước khi thu hoạch.

Lưu Thông và Tiêu Thụ An Toàn: Hỗ Trợ Doanh Nghiệp và Kiểm Soát Chặt Chẽ

Trong quá trình lưu thông và tiêu thụ, huyện Thường Tín tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ sản xuất bằng cách tham gia các sự kiện như hội chợ và triển lãm, nhằm nâng cao nhận thức về an toàn thực phẩm. Không chỉ giới hạn trong tháng hành động vì an toàn thực phẩm, huyện duy trì những hoạt động này quanh năm dưới nhiều hình thức khác nhau. Các đoàn liên ngành của huyện và xã tiến hành kiểm tra đột xuất và định kỳ, giám sát chặt chẽ các cơ sở sản xuất và kinh doanh thực phẩm. Trong vài tháng đầu năm 2023, Thường Tín đã kiểm tra 196 cơ sở, phát hiện và xử phạt hành chính cho 17 cơ sở có vi phạm, đóng góp vào việc duy trì an toàn thực phẩm trong cộng đồng.

Thách Thức An Toàn Thực Phẩm ở Huyện Thường Tín và Giai Đoạn Khó Khăn.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy huyện đang đối mặt với nhiều thách thức. Số lượng cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm tại đây rất lớn, nhưng cán bộ phụ trách công tác an toàn và vệ sinh thực phẩm lại thiếu hụt và trình độ của họ còn hạn chế. Nhiều máy móc và nhà xưởng của các doanh nghiệp bị xuống cấp, không đảm bảo chất lượng, nhưng vẫn thiếu vốn để đầu tư và nâng cấp. Chính sách hỗ trợ từ nhà nước cũng chưa đủ mạnh mẽ để thu hút các doanh nghiệp lớn đầu tư vào sản xuất và kinh doanh thực phẩm an toàn.

Ngoài ra, công tác thanh tra và kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm đang gặp khó khăn do thiếu các phương pháp test xét nghiệm nhanh để phát hiện các chất hóa học có hại như BVTV, độc tố từ vi khuẩn, vi nấm cũng như kim loại. Kiểm soát an toàn thực phẩm tại các chợ truyền thống càng trở nên khó khăn vì đa số nông dân không thói quen ghi chép nhật ký chăm sóc nông sản, thường chỉ thu hoạch và bán khi đến ngày, đến kỳ.

Thêm vào đó, nhiều hộ kinh doanh chuyên nghiệp không quan tâm đến nguồn gốc xuất xứ và quy trình sản xuất của nông sản, họ chỉ quan tâm đến mẫu mã và giá bán. Thói quen lưu giữ hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc và số lượng hàng hóa cũng ít người thực hiện, gây khó khăn khi cơ quan kiểm tra cần truy xuất nguồn gốc.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Nông Sản Bền Vững và Quy Mô Mới

“Dollars thực” cho nông dân: FBN và ADM có thể mang lại bền vững “ở quy mô” cho nông sản Mỹ.

Gần đây, Farmers Business Network (FBN) đã thông báo rằng họ đã “mở rộng diện tích đáng kể” đối tác của mình với tập đoàn nông nghiệp Archer Daniels Midland (ADM) để hỗ trợ các nông dân đang làm việc với hoặc chuyển đổi sang các phương pháp nông nghiệp tái tạo.

Ý tưởng là làm cho các phương pháp nông nghiệp như vậy trở nên tiếp cận chuẩn xác hơn đối với nhiều nông dân, hàng hóa ở Bắc Mỹ, và ứng dụng ở quy mô lớn. Quan trọng hơn, chương trình nhằm mục tiêu mang lại cho những nông dân chuyển đổi tức cực nhưng không phải ai cũng thích ứng được.

“Đây có lẽ là nền tảng cơ bản có thể thúc đẩy sự bền vững ở quy mô trong lĩnh vực hàng hóa,” Charles Baron, đồng sáng lập và Giám đốc Tiếp thị của FBN, theo đánh giá trên AgFunder News.

nhung-loai-cay
Những loại cây che phủ đang phát triển giữa các bãi cỏ, còn lại của lúa mì mùa đông. nguồn: iStock

‘Dollars thực’ đến tay nông dân.

“Đây hoàn toàn không phải là một chương trình quy mô nhỏ,” Ông Baron muốn. “Tổng giá trị thưởng dành cho nông dân trong năm nay thông qua các chương trình của ADM / FBN có thể lên đến hơn 22 tỷ đô la. Đây giờ đây là loại chương trình đang triển khai ở tầm quy mô lớn, và thông qua chương trình này ta sẽ nhìn thấy số tiền thực tế bắt đầu quay trở lại với nông dân.”

ADM là một trong những người mua lớn nhất thế giới về ngũ cốc, với 278 trung tâm mua sắm và 182 nhà máy chế biến chỉ tại Bắc Mỹ.

“Chúng tôi đã hợp tác với đến 55,000 nông hộ ở Bắc Mỹ, và điều này đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức đặt ra cho chúng tôi rất nhiều góc nhìn trong lĩnh vực này, họ cung cấp lúa mì trực tiếp cho ADM và vì vậy, họ là một nhà điều hành có ảnh hưởng lớn trong chuỗi cung ứng toàn cầu,” Ông Baron chia sẻ thêm: “Họ cũng hợp tác với các công ty CPG lớn nhất, các công ty thực phẩm lớn nhất, những công ty này sau đó sẽ có khả năng tham gia và khuyến khích các nông hộ các thực hành bền vững.”

Ông mong muốn mọi người thấu hiểu vấn đề ở đây: “ Chiếc chìa khóa này thật sự tạo ra sự khác biệt cho cả ngành nông nghiệp, nó đẩy mạnh nông nghiệp hướng tới vấn đề bền vững trong sản xuất hoặc dùng phần thưởng để thúc đẩy nông hộ ở phát triển quy mô lớn trong lĩnh vực hàng hóa. Chính chúng tôi xem xét điều này là rất cơ bản cho tương lai của hệ thống thực phẩm.”

Ông đưa ra lưu ý rằng khi FBN phát triển qua các năm, họ đã thấy sự quan tâm tăng lên từ phía khách hàng muốn sự hỗ trợ trong các thực hành bền vững và ưu đãi.

“Khi đội ngũ của chúng tôi triển khai cả hai sáng kiến tiếp thị lúa mì và sáng kiến phân tích dữ liệu, việc thực hiện bền vững trở thành một việc sử dụng tự nhiên của thông tin mà các người mua lúa mì của chúng tôi và các đối tác hợp tác xuôi dòng muốn khả năng kích thích,” ông nói.

“Xây dựng liên kết với nhiều đối tác đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt là với các tổ chức như ADM, POET [ethanol], và nhiều đối tác khác, với mục tiêu là trực tiếp thực hiện các bước giám sát và xác nhận cho nông dân có khả năng tham gia vào các chương trình nông nghiệp bền vững hoặc tái tạo và nhận được phần thưởng từ các hoạt động xuôi dòng.”FBN-nong-nghiep

2 triệu acre và vẫn đang đếm

Đôi chút thông tin về “Acre”:

“Acre” là một đơn vị đo diện tích thường được sử dụng trong nông nghiệp và đo lường đất đai. Một acre tương đương với khoảng 4,047 mét vuông hoặc 43,560 feet vuông. Đây là một đơn vị phổ biến để đo kích thước đất nông nghiệp, cũng như trong các hoạt động liên quan đến địa lý và xây dựng.

FBN và ADM đã bắt đầu một sự hợp tác ban đầu vào năm 2022, cho phép khách hàng của ADM sử dụng nền tảng quản lý doanh nghiệp nông nghiệp Gradable của FBN. Chương trình nhằm mục tiêu thưởng cho những nông dân thực hiện các biện pháp bảo tồn như che phủ đất, cày ít hoặc không cày và giảm lượng khí thải.
Kể từ khi khởi động, đối tác này đã thu hút 1,500 người trồng và chiếm hơn 1 triệu acre đất nông nghiệp.

Qua Gradable, FBN cung cấp công nghệ cho chương trình.

Người trồng gửi dữ liệu đến Gradable, nơi có thể xác nhận các thực hành bền vững của họ và tính toán các kết quả môi trường tương ứng. Nông dân có thể truy cập dịch vụ và liên kết thông tin tài khoản ADM của họ thông qua ứng dụng FBN để xem các vé cân, thanh toán và hợp đồng cần thiết khi họ bán ngũ cốc.

“Qua ADM, [Gradable] cung cấp phí thưởng và động viên cho người trồng, lên đến 25 đô la mỗi acre cho cả kết quả hoặc thực hành thực hiện,” Baron lưu ý.

Quá trình tích hợp Gradable “mở cửa cho bất kỳ ai bán ngũ cốc cho ADM,” ông thêm. Cuối cùng, quá trình tích hợp sẽ xử lý cả thanh toán.

Những người trồng này cũng có thể sử dụng ứng dụng FBN để đăng ký vào chương trình tái tạo của ADM, đó là một trong những dự án được hỗ trợ bởi kế hoạch Đối tác của USDA cho chương trình Hàng hóa Thông minh về Khí hậu. Thông qua chương trình tái tạo, người trồng có thể truy cập hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để thực hiện hoặc tiếp tục thực hành nông nghiệp tái tạo.

ADM và FBN đặt mục tiêu mở rộng chương trình tái tạo (re:generations) đến hơn 2 triệu acre, 18 bang tại Hoa Kỳ và ba tỉnh ở Canada vào năm 2023. Dự kiến có hơn 3,000 người trồng sẽ tham gia với các mặt hàng như ngô, đậu nành, lúa và bông.
Rewarding sustainability

Trong bối cảnh hợp tác với ADM, “nông nghiệp tái tạo” không có định nghĩa chuẩn ngành công nghiệp. Theo Baron, nó tập trung vào khả năng thưởng cho các thực hành và kết quả cụ thể về bền vững trên nông trại.

Trước đây, các đối tác như vậy thường phải được thực hiện từng cái một với từng đối tác hoặc công ty cụ thể, ông nói thêm.
“Có nhiều cố gắng trước đây từ các công ty thực phẩm hoặc các đối tác xuôi dòng, họ cố gắng tìm cách tiếp cận trực tiếp nông dân, cách thực hiện giám sát, xác nhận, khuyến khích, đăng ký, một quy trình rất phân mảng. Và cuối cùng, đa phần, điều này không diễn ra trong lĩnh vực hàng hóa.”

Theo Baron, người trồng cần có hướng dẫn rõ ràng, các giao thức hiệu quả và “một công nghệ và quy trình đăng ký đơn giản.”
“Đối với nông hộ, cuối cùng mọi thứ đều phải quy ra câu hỏi thực tế, ‘

Tôi sẽ trả tiền cho những thay đổi đó, như thế nào? Liệu nó có đáng để đưa hoạt động của người nông dân không? Rủi ro là gì, tôi sẽ quản lý và thực hiện những thay đổi này như thế nào?”

“Khi nông hộ bắt đầu mùa vụ mới của họ, chúng tôi mong muốn có thể tham gia giám sát cả quá trình và đưa thực hành kinh doanh vào các chương trình bền vững hoặc chương trình tái tạo, một loạt các cơ hội khác có thể mở ra trước mắt họ.”

Nguồn: Agfundernews.com

Chuyên mục
Báo cáo chính sách NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Tăng Cường Kinh Tế Tuần Hoàn trong Trồng Trọt

Trong lĩnh vực trồng trọt, khái niệm về “kết thúc vòng đời” không còn tồn tại. Thay vào đó, chúng ta hướng tới việc giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, và thu hồi nguyên liệu cùng sản phẩm phụ trong mọi giai đoạn của chuỗi sản xuất, phân phối, chế biến, và tiêu dùng ở nhiều cấp độ từ nhỏ đến lớn. Điều này đồng thời nâng cao chất lượng môi trường và kinh tế, vừa tạo ra sự cân bằng và phát triển toàn diện.

nong-san-thang-11-292Theo Cục Trồng trọt, chiến lược kinh tế tuần hoàn trong trồng trọt sẽ tập trung vào việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, và công nghệ hóa lý để tối đa hóa giá trị và giảm phát sinh phụ phẩm và chất thải. Áp dụng khoa học vào nông nghiệp như: Công nghệ sinh học, công nghệ hoá lý,… nhằm thích ứng tối đa với việc hóa trị và giảm phát sinh phụ phẩm và chất thải, đồng thời tiết kiệm tài nguyên. Tái chế chất thải và phế phẩm không chỉ giảm lãng phí mà còn cung cấp nguyên liệu cho các quy trình sản xuất tiếp theo.

Tại Việt Nam, đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực nông nghiệp. Sử dụng chất thải và nước thải từ chăn nuôi và trồng trọt để sản xuất và sử dụng khí đốt đó là một phương tiện quan trọng. Hơn nữa, còn tồn tại những mô hình kết hợp giữa nông nghiệp, thủy sản và chăn nuôi, cũng như sự hòa quyện giữa nông lâm và vườn-rừng. Tận dụng phụ phẩm nông nghiệp để tạo chất xúc tác và các sản phẩm có giá trị khác đó là một cách tích cực hỗ trợ quá trình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp.

Những mô hình này không chỉ mang lại tăng cường hiệu suất kinh tế mà còn đóng góp vào việc giảm lượng chất thải và phát thải khí nhà kính. Chúng đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Sự đa dạng này của mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đang góp phần tích cực vào sự bền vững và phát triển của ngành nông nghiệp tại Việt Nam.

Mô hình sử dụng phụ phẩm rơm rạ trong trồng lúa không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất lúa mà còn mang lại nhiều lợi ích khác. Việc này giúp đa dạng hóa sản phẩm, giảm sử dụng phân bón hóa học và cải tạo chất lượng đất. Ngoài ra, nguyên liệu từ phụ phẩm rơm rạ cũng được tận dụng trong trồng nấm, và sau khi thu hoạch nấm, bã còn lại được tái chế để bón cho cây trồng.

Theo Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Ninh Thuận, với tổng diện tích đất nông nghiệp gần 291.000ha, trong đó có 84.800ha đất sản xuất nông nghiệp, nông nghiệp tuần hoàn đang phát triển mạnh mẽ tại địa bàn này. Các nỗ lực trong hướng này đang đem lại hiệu quả tích cực, và tốc độ nhân rộng cũng đang tăng mạnh trong những năm gần đây.

Mô hình sản xuất tại các trang trại của GC Food Group Ninh Thuận, như VietFarm, trang trại Nắng và Gió, là một điển hình thành công trong việc áp dụng nông nghiệp tuần hoàn. Trang trại này không chỉ hiệu quả mà còn có những ứng dụng sáng tạo. Để tránh lãng phí, GC Food Group thu gom và ủ men vi sinh từ vỏ và bẹ nha đam từ nhà máy của họ. Theo đúng tiến độ, chúng sẽ được kết hợp với phân gia súc, mục đích chính là tạo thành phân hữu cơ, phục vụ cho nhu cầu nuôi trồng của các loại cây trồng như: nha đam, nho, táo, và đồng cỏ để chăn nuôi gia súc như: bò và cừu.

Thời gian gần đây, việc phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đã trở thành quá trình sản xuất theo chu trình đóng đẹp. Điều này được thực hiện thông qua việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, và công nghệ hóa lý, cũng như tái chế chất thải và phế phụ phẩm. Sau đó, những nguyên liệu này được tái sử dụng vì mục đích có lợi trong quá trình nuôi trồng, chế biến cho ngành nông nghiệp để tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng cao, giảm lãng phí và thất thoát, đồng thời giảm thiểu lượng chất thải. Điều này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về quan trọng của việc tái sử dụng phụ phẩm và phế phẩm trong quá trình sản xuất, hỗ trợ bảo vệ môi trường.

Hiện tại, trên địa bàn tỉnh, nhiều mô hình kinh tế tuần hoàn đã mang lại kết quả tích cực. Một trong những hình ảnh từ người đi đầu là Công ty TNHH Dalat Hasfarm, đã thực hiện mô hình liên quan đến việc thu gom và xử lý phế phẩm từ các loại cây trồng như: hoa, rau tại trang trại tại xã Đạ Ròn, huyện Đơn Dương với diện tích hơn 200ha nhà kính. Sử dụng công nghệ tích hợp và máy móc hóa cơ giới, đơn vị này đã có thể tái chế khoảng 35.000m3 đến 36.000m3 phế phẩm hàng năm. Mục đích cuối cùng vẫn là nâng cao hiệu suất đầu ra và giảm sức lao động, đánh dấu hành trình đi đến hiện đại hóa sản xuất nhưng không gây hại, ảnh hưởng đến môi trường con người.

Tuy nhiên, theo thông tin từ Cục Trồng trọt, việc khuyến khích phát triển nông nghiệp tuần hoàn ở Việt Nam vẫn đối mặt với một số khó khăn. Nhận thức về nông nghiệp tuần hoàn của các bên liên quan như người quản lý, người sản xuất, cộng đồng và người tiêu dùng vẫn chưa đầy đủ. Cùng nhìn lại đôi chút ta sẽ thấy được việc thúc đẩy nông nghiệp tuần hoàn vẫn chưa được quan tâm đúng đắn nên chưa tạo ra những kết quả tức cực, một phần là chính sách hỗ trợ vẫn chưa hoàn thiện hết.

Đáng chú ý ở đây, công nghệ liên quan đến chế phụ phẩm cây trồng qua việc thu gom, tái chế và xử lý đang mặc đối với thách thức của sự thiếu hụt và phân tán. Các công nghệ hiện nay đòi hỏi tiềm lực kinh tế đáng nể và không thật sự đáp ứng hoàn toàn được nhu cầu của nông dân. Đồng thời, các kết nối bền vững trong hệ thống nông nghiệp, bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, và chế biến, chưa được hình thành theo mô hình kinh tế tuần hoàn, điều này gây ra thiếu sót trong việc tăng giá trị và kéo dài vòng đời sản phẩm, cũng như làm tăng chi phí.

Ngoài ra, còn thiếu tính liên kết và đa ngành trong quá trình phát triển các mô hình nông nghiệp tuần hoàn để tối ưu hóa giá trị cho người sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Quy mô sản xuất thường nhỏ lẻ, chi phí cao, và chưa có các mô hình hiệu quả để giảm giá thành. Thị trường cho các sản phẩm từ nông nghiệp tuần hoàn trong trồng trọt còn hạn chế và chưa đủ minh bạch về việc nhận diện sản phẩm và truy xuất nguồn gốc. Những thách thức này đang tạo ra rào cản đối với sự phát triển bền vững và hiệu quả của nông nghiệp tuần hoàn.

Tại tỉnh Lâm Đồng, phương thức sản xuất nông nghiệp tuần hoàn hiện chỉ áp dụng đối với các mô hình trang trại tổng hợp. Tính chất của nó chưa hoàn toàn khép kín và chủ yếu là tự phát triển. Các doanh nghiệp thu mua chất thải nông nghiệp hiện còn ít, họ chủ yếu tập trung vào việc tái sử dụng cho cây trồng của các chủ trang trại hoặc thương lái nhỏ lẻ.

Vì vậy, trong thời gian sắp tới, cần tăng cường sự thông tin và giới thiệu về mô hình nông nghiệp tuần hoàn, đặc biệt là những mô hình mang lại hiệu suất và ảnh hưởng tích cực. Điều này sẽ hỗ trợ việc lan tỏa và mở rộng chúng trong quá trình sản xuất. Đồng thời, việc xây dựng các chính sách khuyến khích và ưu đãi cho các doanh nghiệp áp dụng kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp trở nên vô cùng quan trọng, nhằm khuyến khích sự áp dụng rộng rãi và bền vững của chúng trong cộng đồng sản xuất. Cần có chính sách hỗ trợ cho nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực này.

Để tạo ra sự đồng bộ và kết nối trong cộng đồng, cần phát triển môi trường khuyến khích sự liên kết giữa trang trại, doanh nghiệp và cộng đồng. Điều này sẽ đóng góp vào sự ổn định và bền vững trong chuỗi sản xuất và môi trường, đồng thời hướng tới một nền kinh tế xanh. Sử dụng công nghệ để tái chế và xử lý phụ phẩm nông nghiệp thành phân bón hữu cơ cũng là một biện pháp quan trọng để hỗ trợ quá trình sản xuất. Mọi nỗ lực này nhằm đạt được mục tiêu phát triển nông nghiệp tuần hoàn và sinh thái trong lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

FAO: Biến đổi chỉ số lương thực tháng 10

Trong tháng 10, giá cả của nhiều mặt hàng thực phẩm trên thị trường thế giới đã ghi nhận sự giảm nhẹ, giảm tỷ lệ 0,5% so với tháng 9. Chỉ có một số ít sản phẩm thuộc nhóm sữa và sản phẩm sữa có sự tăng giá.

dau-an-gao-duong

Theo thông tin từ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), chỉ số giá thực phẩm, được sử dụng để theo dõi biến động hàng tháng về giá cả quốc tế của các sản phẩm lương thực và thực phẩm quan trọng, đã đạt mức trung bình là 120,6 điểm trong tháng 10, đồng nghĩa với việc giảm 10,9% so với cùng kỳ năm trước.

Cụ thể, trong tháng này, Chỉ số giá ngũ cốc đã giảm 1% so với tháng trước. Giá gạo trên thị trường thế giới cũng giảm 2%, đặc biệt khi nhu cầu nhập khẩu quốc tế trên toàn cầu giảm sút. Trong khi đó, giá lúa mì đã giảm 1,9% do nguồn cung cấp dồi dào từ Mỹ và sự cạnh tranh sắc nét giữa các nước xuất khẩu. Trong khi đó, giá ngô đã có mức tăng nhẹ, chủ yếu là do giảm cung cấp từ Argentina.

Trong tháng 9, chỉ số giá dầu thực vật đã giảm 0,7% so với tháng trước, với sự dẫn đầu bởi giá dầu cọ giảm do sản lượng tăng theo mùa và nhu cầu nhập khẩu toàn cầu giảm, mặc dù điều này đã được bù đắp bởi sự tăng giá của dầu đậu nành, hướng dương và hạt cải dầu. Giá dầu đậu nành đang tăng vì cầu từ ngành dầu diesel sinh học đạt mức mạnh mẽ.

Chỉ số giá đường đã ghi nhận sự giảm 2,2% trong tháng, mặc dù vẫn cao hơn 46,6% so với cùng kỳ năm trước. Sự giảm này chủ yếu đến từ tốc độ sản xuất mạnh mẽ tại Braxin, mặc dù lo ngại về triển vọng nguồn cung cấp toàn cầu chặt chẽ hơn trong tương lai đã hạn chế phần nào sự giảm giá.

Chỉ số giá thịt đã giảm 0,6% do nhu cầu nhập khẩu chậm, đặc biệt từ khu vực Đông Á, dẫn đến giảm giá thịt lợn quốc tế. Tuy nhiên, điều này đã được bù đắp bởi sự tăng nhẹ của giá thịt gia cầm, thịt bò và thịt cừu.

Trong khi đó, chỉ số giá sữa đã tăng 2,2% trong tháng 10, chấm dứt chuỗi giảm giá kéo dài 9 tháng. Sự tăng này chủ yếu đến từ giá sữa bột toàn cầu tăng mạnh do nhu cầu nhập khẩu gia tăng từ cả nguồn cung ngắn hạn và dài hạn, cũng như một số không ổn về tác động của điều kiện thời tiết El Niño đối với sản lượng sữa sắp tới ở khu vực Thái Bình Dương.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Thúc đẩy sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học.

Ngày 2/11, tại TP. Hồ Chí Minh, Bộ NN&PTNT tổ chức hội nghị về “Sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học”, với sự tham dự và chủ trì của Thứ trưởng Hoàng Trung.

Thu-truong-Hoang-Trung-phat-bieu-tai-hoi-nghi
Thu-truong-Hoang-Trung-phat-bieu-tai-hoi-nghi

Trong bài phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Hoàng Trung đã đề cập đến việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học với nhiều lợi ích như bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, đảm bảo an toàn cho người sử dụng, và không để lại tồn dư thuốc trong nông sản, từ đó đảm bảo chất lượng đầu ra sản phẩm và đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.

Ông cũng đánh giá cao nỗ lực của các doanh nghiệp, hiệp hội và địa phương trong việc thúc đẩy ứng dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Ông nhấn mạnh rằng việc xây dựng mô hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học, thay đổi nhận thức và tư duy của cộng đồng, cùng với việc phát triển sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật sinh học và ứng dụng chúng vào sản xuất đã tạo ra những kết quả tích cực.

Theo thông tin từ tổ chức CropLife Châu Á, trên toàn cầu, có khoảng 300 hoạt chất và sinh vật trừ sâu sinh học. Ở Bắc Mỹ, tỷ lệ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học đứng đầu. Trong đó, thuốc trừ sâu sinh học chiếm tỷ lệ lớn nhất, trong khi thuốc hoá học có nguồn gốc tự nhiên chiếm 1/3 thị trường thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Trong giai đoạn từ 2005 đến 2025, thị trường thuốc bảo vệ thực vật sinh học đang có mức tăng trưởng bình quân hàng năm ở mức 10%, trong khi tỷ lệ tăng trưởng của thuốc hoá học đang giảm 3% mỗi năm.

Để thực hiện cụ thể các chính sách về thuốc bảo vệ thực vật sinh học tại Việt Nam, Cục Bảo vệ thực vật đã phát triển và triển khai chương trình “Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học giai đoạn 2021 – 2025”.

Thông tin chi tiết về kết quả triển khai chương trình, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật Huỳnh Tấn Đạt đã cho biết rằng, cả nước hiện đã có 99 cơ sở sản xuất thuốc bảo vệ thực vật đủ điều kiện, trong đó có 85 cơ sở sản xuất thuốc bảo vệ thực vật sinh học.

Cho đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã sản xuất gần 30 dạng thuốc bảo vệ thực vật sinh học thành phẩm khác nhau, bao gồm nhiều dạng tiên tiến và an toàn như dạng hạt phân tán trong nước, dầu phân tán, đậm đặc tan trong nước, và dạng hạt. Ngoài ra, các công nghệ sản xuất thuốc bảo vệ thực vật sinh học phổ biến trên toàn cầu cũng đã được đăng ký, sản xuất và áp dụng tại Việt Nam, bao gồm sản xuất thuốc sinh học nano, thuốc sinh học chiết xuất từ thảo mộc, thuốc sinh học chứa các vi sinh vật, và thuốc có nguồn gốc từ virus hoặc tuyến trùng.

Lượng thuốc bảo vệ thực vật sinh học nhập khẩu đã có sự tăng dần trong những năm gần đây. Năm 2020, nước ta đã nhập khẩu 21,9 nghìn tấn thuốc bảo vệ thực vật, trị giá 89,4 triệu USD. Trong năm 2021, lượng nhập khẩu đã tăng lên 28,2 nghìn tấn, trị giá 113,8 triệu USD. Năm 2022, lượng nhập khẩu là 25,2 nghìn tấn, trị giá 111,2 triệu USD. Trong 9 tháng đầu năm nay, nước ta đã nhập khẩu 13,5 nghìn tấn thuốc bảo vệ thực vật, trị giá 50,5 triệu USD.

Trong 3 năm gần đây, tổng lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng trung bình cả nước đang có xu hướng giảm dần qua từng năm, giảm từ 3,81kg/ha vào năm 2020 xuống còn 3,19 kg/ha vào năm 2022. Tuy nhiên, lượng thuốc bảo vệ thực vật sinh học vẫn duy trì ổn định và có xu hướng tăng từ 16,67% vào năm 2020 lên 18,49% vào năm 2022.

Toan-canh-hoi-nghi
Toan-canh-hoi-nghi

Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu tích cực, song việc sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học hiện nay vẫn đối diện với một số hạn chế. Hội nghị nhận thấy rằng, ngành nông nghiệp chưa có những chính sách cụ thể để thúc đẩy nghiên cứu, hỗ trợ vốn và đầu tư cho phát triển sản xuất, kinh doanh và hoạt động xoay quanh thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Sự phụ thuộc lớn vào các đối tác nước ngoài về bản quyền, nguyên liệu và công nghệ cũng đưa đến tình trạng thị trường không ổn định.

Hầu hết các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học hiện có trên thị trường Việt Nam đều được nhập khẩu từ nước ngoài. Các thủ tục đăng ký sản xuất và thử nghiệm thuốc cũng gặp phải nhiều khó khăn. Hệ thống trang thiết bị và phòng thí nghiệm nghiên cứu, kiểm tra chất lượng về thuốc bảo vệ thực vật sinh học cũng chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tế.

Trong phát biểu, ông Huỳnh Tất Đạt, đại diện từ Cục Bảo vệ thực vật, cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký, kiểm tra và thuốc bảo vệ thực vật sinh học được đưa vào danh mục thuốc được phép ứng dụng tại Việt Nam. Ông cũng cam kết hỗ trợ nhập khẩu, nghiên cứu và thử nghiệm các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học như vi sinh vật và thảo mộc, cùng việc xây dựng quy trình và hướng dẫn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học cho các loại cây trồng có giá trị kinh tế và tiềm năng xuất khẩu.

Cùng với đó, việc phối hợp với các địa phương, Hội, Hiệp hội, doanh nghiệp để thiết lập các mô hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học cũng sẽ tiếp tục. Đặc biệt, sự ưu tiên sẽ được đặt cho việc lựa chọn cây trồng chủ lực, có giá trị kinh tế cao, có tiềm năng xuất khẩu; vùng có nguy cơ mất an toàn do sử dụng thuốc hóa học; cũng như vùng sản xuất hữu cơ và chuyên canh.

Để thực hiện hiệu quả Chương trình hướng tới thúc đẩy sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học trong giai đoạn từ 2021 đến 2025, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật Huỳnh Tấn Đạt đã đề xuất các bộ, ngành bổ sung và ưu tiên các chính sách nhằm khuyến khích phát triển sản xuất và hỗ trợ nông dân trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Đồng thời, việc rà soát và cắt giảm các quy định, điều kiện liên quan đến quản lý thuốc bảo vệ thực vật sinh học cũng được đề xuất. Hơn nữa, đề xuất miễn giảm phí, thuế nhập khẩu, sản xuất và kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Các địa phương cũng cần ban hành chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển sản xuất, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học, đặc biệt là khuyến khích sử dụng thuốc sinh học trong quy mô nông hộ trên địa bàn.

Đối với Cục Bảo vệ thực vật, cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký, khảo nghiệm và đưa thuốc bảo vệ thực vật sinh học vào danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép dùng trong nông nghiệp tại Việt Nam Hỗ trợ nhập khẩu, nghiên cứu và thử nghiệm các thuốc bảo vệ thực vật sinh học nhóm vi sinh, thảo mộc cũng là cam kết của cơ quan này. Đồng thời, việc xây dựng quy trình và hướng dẫn sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học cho các loại cây trồng có giá trị kinh tế và tiềm năng xuất khẩu cũng được đề xuất.

Đồng thời, cũng tiếp tục phối hợp với các địa phương, Hội, Hiệp hội, và doanh nghiệp để lựa chọn và triển khai xây dựng các mô hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Trong đó, sự ưu tiên sẽ được đặt cho việc lựa chọn các loại cây trồng chủ lực, có giá trị kinh tế cao và có tiềm năng xuất khẩu; cũng như vùng đất có nguy cơ mất an toàn do sử dụng thuốc hóa học, và vùng sản xuất hữu cơ hoặc chuyên canh.

Kết luận của Hội nghị, Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hoàng Trung nhấn mạnh rằng trong thời gian tới, ngành nông nghiệp sẽ tiến hành rà soát và đề xuất xây dựng các chính sách cụ thể để khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức cũng như cá nhân đầu tư phát triển sản xuất và ứng dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học vào nông nghiệp. Đồng thời, việc đơn giản hóa thủ tục hành chính cũng sẽ được ưu tiên. Hơn nữa, sẽ tăng cường hướng dẫn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học tại các địa phương.

Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp cũng cần mạnh mẽ hơn trong việc sản xuất thuốc bảo vệ thực vật sinh học trong nước; tiếp tục hoàn thiện phương pháp thử kiểm tra thuốc bảo vệ thực vật sinh học; nghiên cứu đáng tin cậy và thực chất về các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học, nhằm đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người dân, không chỉ dừng lại ở mức thử nghiệm. Hơn nữa, sẽ tăng cường hợp tác quốc tế và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước từ nhiều phần tử kinh tế khác nhau, nhằm phát triển sản xuất thuốc bảo vệ thực vật sinh học tại Việt Nam.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Miền Nam hướng tới vụ Đông Xuân đạt 6,2 triệu tấn thóc năm 2023-2024.

Trong vụ Đông Xuân 2023-2024, khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, và duyên hải Nam Trung Bộ dự kiến gieo trồng lúa trên diện tích 406 nghìn ha. Dự kiến năng suất trung bình là 65,70 tạ/ha, tăng 0,27 tạ/ha so với mùa trước, ước tính sản lượng đạt khoảng 2,67 triệu tấn thóc, tăng 0,27 nghìn tấn so với vụ Đông Xuân 2022-2023.Hoi-nghi-lua-gao

Thông tin từ Hội nghị sơ kết sản xuất trồng trọt vụ Hè Thu và vụ Mùa 2023 cũng như kế hoạch sản xuất vụ Đông Xuân 2023-2024 tại khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ được thông báo tại hội nghị tổ chức tại Quảng Ngãi ngày 31/10, do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) hợp tác với UBND tỉnh Quảng Ngãi tổ chức.

Theo báo cáo của Cục Trồng trọt, diện tích gieo trồng lúa trên vùng đã đạt hơn 1 triệu ha trong năm 2023. Năng suất trung bình đạt 60,24 tạ/ha, tăng 1,33 tạ/ha so với năm trước, với sản lượng ước tính đạt 6,2 triệu tấn thóc, tăng 130 nghìn tấn so với năm 2022.

Vùng này đã chuyển đổi khoảng 19.751 ha đất lúa không hiệu quả sang việc trồng các loại cây khác, như khoai lang Nhật, dưa hấu, thuốc lá, và ngô sinh khối, đem lại hiệu suất kinh tế cao. Lợi nhuận từ việc chuyển đổi này dao động từ 25-220 triệu đồng/ha tuỳ thuộc vào loại cây trồng cụ thể.

Trong lĩnh vực cây công nghiệp và cây ăn quả, khu vực đã duy trì diện tích hiện có, đặc biệt là với các loại cây lớn như cà-phê, hồ tiêu, cao su, và điều, với tăng trưởng sản lượng từ 1-2% so với năm 2022. Các chương trình tái canh cà-phê tại các tỉnh Tây Nguyên đã thể hiện hiệu quả tốt.

Ngoài ra, các tỉnh Tây Nguyên đã phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, đặc biệt là trong lĩnh vực cây ăn trái và cây công nghiệp. Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm đồng đều, chất lượng, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, đặc biệt là tại các thị trường khó tính.

Công tác dự báo và phòng trừ sâu bệnh được thực hiện thường xuyên, đảm bảo cảnh báo kịp thời về tình hình sâu bệnh trên cánh đồng, giúp nông dân chuẩn bị phòng trừ một cách hiệu quả, từ đó giảm thiểu tổn thất do sâu bệnh gây ra.

Đồng thời, việc tăng giá lúa kể từ cuối vụ Hè Thu 2023 đã thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường hợp tác với hộ dân để đảm bảo tiêu thụ và mua lúa, giúp nông dân yên tâm về việc tiêu thụ sản phẩm khi vào mùa thu hoạch. Ngoài việc sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước, hầu hết các địa phương cũng đã tập trung vào việc xuất khẩu, đảm bảo chuẩn bị các điều kiện cần thiết như kiểm tra, thanh tra, và việc cấp phép mã số vùng trồng cùng với việc đóng gói, nhằm đáp ứng yêu cầu về xuất khẩu nông sản.

Tại hội nghị, các đại biểu đã tập trung thảo luận, phân tích và đánh giá các khó khăn, hạn chế cần được giải quyết, đồng thời đưa ra những kinh nghiệm và đề xuất giải pháp để thực hiện kế hoạch sản xuất vụ Đông Xuân 2023-2024 một cách hiệu quả.

Theo kế hoạch, vụ Đông Xuân 2023-2024, khu vực sẽ gieo trồng lúa trên diện tích 406 nghìn ha; mục tiêu năng suất trung bình là 65,70 tạ/ha, với mục tiêu tăng 0,27 tạ/ha. Sản lượng dự kiến đạt 2,67 triệu tấn thóc, tăng 0,27 nghìn tấn so với vụ Đông Xuân 2022-2023.

Để đạt được mục tiêu trên, Cục Trồng trọt đã đề xuất một số khuyến nghị cụ thể cho từng vùng, bao gồm việc lên lịch trồng theo mùa, sử dụng giống cây tiên tiến, và áp dụng kỹ thuật canh tác hiện đại. Đồng thời, việc quản lý tài nguyên nước cũng được nhấn mạnh, bao gồm việc sử dụng nước một cách tiết kiệm và hiệu quả. Các vùng gặp nguy cơ hạn hán cần thay đổi lịch trình sản xuất, và áp dụng kỹ thuật canh tác phù hợp để giảm thiểu tác động của hạn hán và mặn đến sản lượng lúa.

Đối với cây màu và cây công nghiệp có chu kỳ ngắn, việc cơ cấu cây trồng cần được thực hiện một cách hợp lý, tận dụng ưu thế cạnh tranh của từng vùng sinh thái. Sử dụng giống cây phù hợp với thị trường, có khả năng chống chịu và đầu tư vào canh tác hiệu quả để tăng năng suất.

Đối với cây công nghiệp có chu kỳ dài và cây ăn quả, việc tăng cường chỉ đạo sản xuất, đầu tư và chăm sóc cây trồng, cùng với việc mở rộng diện tích trồng mới và tái canh, sẽ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm. Việc tạo liên kết sản xuất và tiêu thụ theo hướng sản xuất hàng loạt cũng cần được tăng cường.

Trong phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Hoàng Trung đề xuất các tỉnh trong khu vực tập trung vào việc chuyển đổi các vùng thiếu nước tưới sang trồng cây cạn ngắn ngày để tăng cường hiệu suất sản xuất và tiết kiệm nước tưới. Ông cũng đề nghị tập trung thực hiện Đề án Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao liên kết với tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Việc theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết và lượng nước sẽ giúp đảm bảo sự bảo vệ sản xuất và giảm thiểu thiệt hại. Ông cũng nhấn mạnh về việc xây dựng kế hoạch phòng chống hạn và xâm nhập mặn, cũng như ứng phó kịp thời khi gặp tình huống hạn, mặn và thiếu nước tưới trong mùa khô.

Thứ trưởng Hoàng Trung cũng khuyến khích các địa phương tập trung vào việc tăng giá trị trên mỗi đơn vị diện tích gieo trồng, đồng thời tập trung vào việc giảm chi phí đầu vào và mở rộng việc cấp phép mã số vùng trồng, cũng như số lượng cơ sở đóng gói. Việc này được coi là một bước tiến quan trọng để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và thúc đẩy sự bền vững của ngành.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Giá sầu riêng Musang King Việt Nam chạm mức thấp kỷ lục.

Theo báo cáo của các phương tiện truyền thông Việt Nam, giá sầu riêng Musang King gần đây đã giảm mạnh tới 70% so với năm ngoái, chủ yếu do chất lượng giảm sút. Giá hiện tại của loại sầu riêng này là 80.000 đồng mỗi kilogram, đánh dấu mức thấp lịch sử.

Một nông dân tại tỉnh Đắk Lắk, thuộc khu vực Tây Nguyên, cho biết giá Musang King hiện tại đã giảm dưới mức giá của sầu riêng Monthong chất lượng cao. Sầu riêng Musang King từ Việt Nam trong những năm gần đây rất được săn đón, đạt giá 250.000-300.000 đồng mỗi kilogram khi bán buôn. Trong khi đó, giá bán lẻ thường vượt quá 500.000-700.000 đồng mỗi kilogram. Tuy nhiên, năm nay, sự giảm sút quan tâm từ các thương lái đã khiến giá giảm xuống chỉ còn 100.000 đồng mỗi kilogram.

Sản lượng sầu riêng Monthong phụ thuộc vào tuổi của cây, với mức sản xuất trung bình từ 10-20 tấn mỗi hecta. Trái lại, cây sầu riêng Musang King chỉ cho một nửa số lượng đó, với trái hiếm khi vượt quá 1,5 kilogram, làm cho chúng khó bán với giá cao.

Để phản ứng mạnh mẽ với tình hình thị trường này, một nông dân từ tỉnh Tiền Giang miền Nam được cho là đã chặt hạ 200 cây sầu riêng Musang King đã trồng được sáu năm, gây ra tổng số lỗ hỏng 6 tỷ đồng (244.000 đô la Mỹ). Theo nông dân, việc trồng sầu riêng Musang King ít phù hợp với điều kiện địa phương, dẫn đến sản lượng thấp và chất lượng trái không tốt. Năm nay, sầu riêng Musang King của nông dân này chỉ bán được với giá 80.000 đồng mỗi kilogram.

Trồng sầu riêng tại Việt Nam tập trung chủ yếu ở khu vực miền Nam và Tây Nguyên. Thú vị là giá sầu riêng Kanyao đã tăng từ cuối tháng Mười. Vào ngày 22 tháng Mười, sầu riêng Kanyao loại Ri6 được bán với giá từ 83.000-93.000 đồng ($3,38-3,78) mỗi kilogram, trong khi sầu riêng Kanyao thông thường có giá từ 75.000-80.000 đồng ($3,05-3,25) mỗi kilogram. Giá mua sầu riêng Monthong chọn lọc đạt từ 87.000-93.000 đồng ($3,54-3,78) mỗi kilogram, trong khi sầu riêng Monthong thông thường được bán với giá từ 76.000-82.000 đồng ($3,09-3,34) mỗi kilogram.

Các chuyên gia trong ngành cho biết rằng sầu riêng Musang King được trồng tại Việt Nam có chất lượng thấp hơn so với đối thủ Malaysia, làm cho việc đề xuất giá cao trở nên khó khăn. Đặng Mạnh Khuông, một thương gia tại thành phố Cần Thơ miền Nam, nhấn mạnh rằng giá sầu riêng Musang King đã trải qua một sự giảm mạnh mặc dù cung ứng đã giảm. Musang King, một lúc được xem là loại sầu riêng tốt nhất thế giới, hiện đang gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các loại khác về cả giá và sản lượng, ít nhất là tại Việt Nam.

Nguồn: Producereport

Chuyên mục
Kiến thức nông nghiệp NÔNG NGHIỆP 360

Báo cáo FAO về Khí Methane từ Chăn Nuôi và Lúa Gạo.

Báo cáo mới của FAO cung cấp đánh giá toàn diện về các phương pháp tiếp cận hiệu quả, linh hoạt và bền vững trong sản xuất nông sản và thực phẩm, hướng tới bảo vệ môi trường.

bo-lua-gao

Sự gia tăng của khí methane được xác định là một yếu tố quan trọng tác động tiêu cực đến khủng hoảng khí hậu, đẩy mạnh sự chú ý đến các biện pháp giảm thiểu khí thải methane trong lĩnh vực nông nghiệp quan trọng. Với mục tiêu tăng cường hiểu biết về các biện pháp hành động thiết thực và hỗ trợ cộng đồng, Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc (FAO) đã phát hành báo cáo “Phát thải khí methane trong hệ thống chăn nuôi và lúa gạo: Nguyên nhân, đo lường, giảm thiểu và đánh giá”.

Báo cáo được thực hiện bởi một nhóm gồm 54 nhà khoa học và chuyên gia quốc tế của Đối tác Đánh giá và Hiệu suất Môi trường Chăn nuôi (LEAP), mà FAO đã tổ chức từ năm 2012. Nội dung báo cáo cung cấp một cái nhìn toàn diện và phân tích về lượng khí methane trong hệ thống chăn nuôi và lúa gạo. Báo cáo không chỉ chỉ ra nguồn gốc và nơi lưu trữ khí methane, mà còn mô tả cách đo lường lượng khí thải, đồng thời trình bày một loạt các chiến lược giảm thiểu và đánh giá các dữ liệu có thể sử dụng để đo lường cả lượng khí thải và mức độ giảm thiểu trong hệ thống khí hậu.

Trong bối cảnh chuyển đổi khí hậu, Phó Tổng giám đốc FAO đã nhấn mạnh rằng báo cáo này tăng cường những nỗ lực của các quốc gia và các bên liên quan trong việc giảm phát thải khí methane, đồng thời hướng tới việc phát triển hệ thống nông sản thực phẩm hiệu quả, toàn diện, linh hoạt, ít phát thải và bền vững hơn.

Khí methane chiếm khoảng 20% tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu và có khả năng giữ nhiệt cao gấp 25 lần so với carbon dioxide tại lớp bức xạ trong khí quyển. Sự đóng góp của lượng khí thải methane từ hoạt động con người đang làm tăng thêm khoảng 0,5 độ C vào sự nóng lên toàn cầu được ghi nhận, từ đó làm cho việc giảm lượng khí thải này trở nên cực kỳ quan trọng trong việc thực hiện Thỏa thuận Paris. Báo cáo này được xây dựng nhằm hỗ trợ các hệ thống nông nghiệp thực phẩm tham gia vào Cam kết Mê-tan Toàn cầu, một sáng kiến không ràng buộc được hơn 150 quốc gia đồng ý nhằm giảm 30% lượng khí thải methane so với mức năm 2020 vào năm 2030, từ đó giúp tránh được sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu vượt quá mức 0,2 độ C vào năm 2050.

Ngoài ra, dự án này cũng phù hợp với Chiến lược của FAO về Biến đổi Khí hậu và Khung Chiến lược 2022-2031, cả hai đều hướng tới mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính thông qua việc kết hợp toàn diện của Bốn Tốt, bao gồm: Sản xuất tốt hơn, Dinh dưỡng tốt hơn, Môi trường tốt hơn và Cuộc sống tốt hơn.

Ngoài các hệ thống thực phẩm nông nghiệp, một số hoạt động khác của con người cũng góp phần vào việc phát thải khí methane, bao gồm bãi chôn lấp, hệ thống dầu khí tự nhiên, mỏ than, và nhiều nguồn khác. Khoảng 32% lượng khí thải methane do con người tạo ra trên toàn cầu đến từ quá trình vi sinh vật trong quá trình lên men trong dạ dày của động vật nhai lại và hệ thống quản lý phân, trong khi 8% khác đến từ hoạt động trồng trọt lúa.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
Báo cáo chính sách NÔNG NGHIỆP 360

Báo cáo thị trường cà phê tháng 2/2023

I . Thị trường cà phê thế giới.

1. Sản xuất

Lo ngại về thiếu hụt nguồn cung cà phê do tình hình thời tiết không thuận lợi tại Brazil cùng báo cáo tồn kho giảm đã tạo ra tác động tích cực đáng kể lên thị trường cà phê toàn cầu trong tháng 2. Giá cà phê arabica trên sàn New York đã phục hồi gần đây, nhưng vẫn thấp hơn thị trường nội địa Brazil. Lượng tồn kho đã giảm sau hai vụ mùa yếu kém, khiến người nông dân không muốn bán ra ở mức giá hiện tại. Do đó, các thương nhân quốc tế đang tìm kiếm nguồn cung cấp cà phê với giá gần với giá tương lai trên sàn New York.

Theo Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO), dự trữ cà phê arabica trên sàn New York đã giảm 5%, nhưng dự trữ robusta tăng 13,8%. Reuters dự đoán thiếu hụt cung cà phê thế giới có thể khoảng 4,15 triệu bao. Xuất khẩu cà phê toàn cầu giảm 2,8% trong 3 tháng đầu niên vụ hiện tại. ICO dự báo sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2022-2023 giảm 2,1%, trong khi tiêu thụ dự kiến ​​tăng 3,3%. Sản lượng niên vụ cà phê của Việt Nam giảm 10-15% do người dân chuyển đổi cây trồng.

Ở Colombia, tổng sản lượng cà phê giảm 10% trong 12 tháng tính đến tháng 1/2023. Tại Peru, thời tiết không thuận lợi và tình hình chính trị bất ổn đang ảnh hưởng đến xuất khẩu cà phê.

2. Tiêu thụ

ICO cho biết xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 1 giảm 10,2% so với tháng trước và giảm 13,9% so với cùng kỳ năm 2022. Trong 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023, xuất khẩu cà phê toàn cầu giảm 6% so với cùng kỳ niên vụ trước, xuống còn 39,9 triệu bao. Cà phê nhân xanh chiếm gần 90% xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 1, với khối lượng đạt 10,2 triệu bao, giảm 15% so với cùng kỳ năm trước. Trong giai đoạn từ tháng 10/2022 đến tháng 1/2023, lượng xuất khẩu cà phê nhân xanh đạt 36 triệu bao, giảm 5,4% so với cùng kỳ.

Xuất khẩu cà phê nhân xanh arabica Brazil giảm 17% trong tháng 1 và giảm 0,1% sau 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023, xuống 13,1 triệu bao. Các lô hàng arabica khác giảm 18% trong tháng 1 và đạt 5,1 triệu bao sau 4 tháng đầu niên vụ cà phê 2022-2023, giảm 18%.

Xuất khẩu cà phê arabica Colombia giảm mạnh nhất với 20,9% trong tháng 1 và 15,9% trong 4 tháng đầu niên vụ hiện tại, xuống 3,7 triệu bao.Trong tháng 1, lượng xuất khẩu cà phê robusta giảm 10,1%, trong khi trong 4 tháng đầu của niên vụ 2022-2023 giảm 1,4%, đạt gần 14 triệu bao.

bieu-do-motTrong tháng 1 vừa qua, lượng xuất khẩu cà phê hòa tan giảm 3%, chỉ còn đạt 0,9 triệu bao. Tính đến sau 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023, xuất khẩu cà phê hòa tan trên thế giới đã giảm 11,2% so với niên vụ trước đó, chiếm khoảng 10,1% trong tổng lượng xuất khẩu cà phê toàn cầu. Tương tự, xuất khẩu cà phê rang xay cũng giảm 9% trong tháng 1, chỉ đạt 61.683 bao. Tính đến sau 4 tháng, khối lượng cà phê rang xay được xuất khẩu trên toàn cầu đã giảm xuống còn 278.977 bao so với cùng kỳ năm trước.

bieu-dp-2

Trong tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê khu vực Nam Mỹ giảm 19,9% xuống 3,9 triệu bao, do sự giảm của Brazil, Colombia và Peru lần lượt là 16%, 18,8% và 63,9%. Colombia chịu ảnh hưởng từ hiện tượng La Niña, trong khi Peru gặp khó khăn do thời tiết và tình hình chính trị không ổn định. Sự sụt giảm ở Peru cũng có liên quan đến việc sản lượng xuất khẩu tháng 1/2022 tăng đột biến, vượt qua mức trung bình của 6 năm qua.bieu-do-3

 

Trong tháng 1, khu vực châu Á và châu Đại Dương ghi nhận giảm xuất khẩu cà phê 17,2% và 3,3% trong 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023. Việt Nam, Ấn Độ và Indonesia, các quốc gia hàng đầu trong khu vực, đều trải qua sự sụt giảm đáng kể. Ngược lại, khu vực châu Phi đã tăng trưởng 19,5% và 1,4% tương ứng trong tháng 1 và 4 tháng đầu niên vụ, với Uganda dẫn đầu với sự phục hồi sau chuỗi suy giảm kéo dài 12 tháng. Ở khu vực Trung Mỹ và Mexico, xuất khẩu cà phê giảm 5% trong tháng 1 và 11,4% trong 4 tháng, nhưng Honduras và Mexico đều ghi nhận xu hướng tăng do nguồn cung dồi dào và cao điểm thu hoạch.

3. Diễn biến giá

Chỉ số giá cà phê tổng hợp (I-CIP) theo dõi bởi ICO đã tăng 11,4% trong tháng 2, đạt mức bình quân 174,8 UScent/pound, với mức giá dao động từ 169,5 đến 183,9 UScent/pound.

bieu-do-4

Trong tháng 2, giá cà phê robusta và arabica tiếp tục tăng mạnh do lo ngại về thiếu hụt nguồn cung trong ngắn hạn. Đồng thời, việc đồng real tăng giá trị so với đồng USD ở đầu năm đã giới hạn người trồng cà phê tại Brazil từ việc bán ra, đồng thời đẩy giá cà phê tăng cao hơn. Đến ngày 28/2, giá cà phê robusta giao trong tháng 5 đã tăng 10% so với tháng trước, lên mức 2.121 USD/tấn.

B-do-5

Giá cà phê arabica giao trong tháng 5 cũng tăng 15% lên 190 UScents/pound.

B-D-64. Dự báo

Dự kiến giá cà phê sẽ giảm do thông tin tiêu cực từ thị trường tài chính và Fed thì tăng lãi suất liên tục. Sự sụp đổ của ngân hàng SVB cũng gây áp lực tiêu cực đối với tâm lý người mua. Mặt khác, dự kiến cung cà phê từ Indonesia sẽ tăng do vụ thu hoạch mới, trong khi xuất khẩu của nhiều quốc gia đang giảm, giúp giảm đà tăng giá. Tuy nhiên, trong tương lai, tình trạng thiếu hụt cà phê có thể làm tăng giá do nhiều quốc gia gặp khó khăn với nguồn cung.

II . Chuyển biến thị trường cà phê Việt

1. Sản xuất 

Dự báo sản lượng cà phê cho niên vụ 2022-2023 sẽ giảm khoảng 10-15% so với niên vụ trước, xuống khoảng 1,47 triệu tấn. Nguyên nhân chính là do diện tích trồng cà phê giảm, khi người dân chuyển sang trồng các cây trồng khác. Hiện diện tích cà phê của Việt Nam vào năm 2022 là 710.000 ha, với sản lượng hơn 1,84 triệu tấn. Các tỉnh Tây Nguyên chiếm phần lớn về diện tích và sản lượng cà phê của cả nước, với Gia Lai đang hướng tới ổn định diện tích 100.000 ha, áp dụng công nghệ tưới tiêu tiên tiến. Đắk Nông, tỉnh chiếm 23% diện tích cà phê cả nước, ghi nhận tổng diện tích 139.932 ha và tổng sản lượng 356.612 tấn cà phê vào cuối năm 2022. Tuy nhiên, ngành cà phê Việt Nam đối diện nhiều thách thức như cân cầu cà phê, sự thịnh vượng của người trồng, trách nhiệm giải trình, tiêu dùng nội địa, biến đổi khí hậu và quy định mới từ các nước nhập khẩu. Đắk Lắk, thủ phủ cà phê của Việt Nam, đang phải đối mặt với các vấn đề như biến đổi khí hậu, diện tích sản xuất hạn chế, khai thác đất quá mức, và thiếu chế biến sâu.

2. Tiêu thụ 

Theo Tổng cục Hải quan, trong tháng 2, Việt Nam xuất khẩu cà phê đạt 200.056 tấn, trị giá 435 triệu USD, tăng 40% so với tháng trước. Tuy nhiên, trong 2 tháng đầu năm, xuất khẩu cà phê giảm 7,8% về lượng và 9,5% về trị giá, đạt 342.352 tấn và 745,3 triệu USD. Giá xuất khẩu bình quân của cà phê trong 2 tháng đầu năm là 2.177 USD/tấn, giảm nhẹ 2% so với cùng kỳ năm trước.  

B-D-7Mặc dù giá cà phê đang ở mức cao, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang nhiều thị trường lớn vẫn duy trì xu hướng tích cực. Liên minh châu Âu (EU) tiếp tục là thị trường tiêu thụ lớn nhất của Việt Nam, chiếm 41% khối lượng xuất khẩu. Trong đó, xuất khẩu sang nhiều nước trong EU tăng mạnh, nhưng Bỉ lại ghi nhận sự giảm mạnh 42,9%. Ngoài ra, xuất khẩu cà phê sang Mỹ, Nga, Algeria cũng đều tăng đáng kể, cùng với sự gia tăng đáng kể trong việc nhập khẩu cà phê từ Mexico, Indonesia và Ấn Độ.

B-d-8

3. Diễn biến giá 

Trong 2 tháng đầu năm, giá cà phê tại Việt Nam tăng mạnh khoảng 20%, lên mức khoảng 46.700 – 47.100 đồng/kg, đạt mức cao nhất trong 5 tháng trở lại đây và chỉ thấp hơn đỉnh cao 50.700 đồng/kg vào tháng 8 năm trước.

B-d-9

Tình hình thị trường cà phê tăng giá chủ yếu do ảnh hưởng tiêu cực từ sản xuất cà phê tại Brazil do thời tiết xấu. Các nhà đầu tư lớn trên thế giới đã tập trung mua vào để giữ hàng, góp phần đẩy giá cà phê thế giới lên cao hơn và giá cà phê trong nước cũng tăng theo.

4. Dự báo

Trong tháng 2, xuất khẩu cà phê của Việt Nam tăng so với cùng kỳ năm trước, đạt 342.352 tấn, trị giá 745,3 triệu USD, giảm 7,8% về lượng và 9,5% về trị giá. Giá xuất khẩu bình quân cà phê trong 2 tháng đạt 2.177 USD/tấn, giảm nhẹ 2% so với cùng kỳ năm trước. Tình hình này cho thấy nhu cầu cà phê trong ngắn hạn đang yếu, tuy nhiên, doanh nghiệp xuất khẩu lạc quan về tình hình dài hạn, với dự đoán nhu cầu tăng mạnh, đặc biệt nếu tình hình thời tiết xấu tiếp tục ảnh hưởng tới thị trường Brazil.

5. Tăng trưởng nhập khẩu cà phê Việt Nam tại Pháp

Trong 11 tháng năm 2022, Pháp đã tăng nhập khẩu cà phê từ Việt Nam lên 24,5 nghìn tấn, trị giá 58,79 triệu EUR (tương đương 62,11 triệu USD), tăng 23,6% về lượng và 107,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. 

b-d-10

Trong 11 tháng năm 2022, thị phần cà phê của Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu của Pháp từ thế giới đã tăng lên 6,97%, so với 5,22% trong cùng kỳ năm 2021. Lượng nhập khẩu nội khối giảm 5,8% về lượng, nhưng tăng 31,2% về trị giá, trong khi lượng nhập khẩu từ các nước bên ngoài giảm 9% về lượng, nhưng tăng 7,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Giá nhập khẩu bình quân cà phê của Pháp trong 11 tháng năm 2022 đạt mức 7.919 EUR/tấn, tăng 26,2% so với cùng kỳ năm 2021.

BĐ-11

III . Hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành

  • Cổ phiếu CFV của CTCP Cà phê Thắng Lợi: đã tăng trần liên tục trong 14 phiên, đẩy giá từ 8.600 đồng/cp lên 67.600 đồng/cp, trước khi điều chỉnh về 63.700 đồng/cp vào ngày 13/3. Đây không phải lần đầu tiên cổ phiếu này gây chú ý với việc tăng mạnh, khi năm 2022 đã tăng 21 lần chỉ trong một tháng. công ty đã phải lên tiếng về việc tăng giá cổ phiếu, bác bỏ việc có sự can thiệp từ các cá nhân lợi dụng lỗ hổng thị trường.
  • Giám đốc Công ty Cà phê Thuận An, ông Lê Văn Một, đã mua vào 1.700 cổ phiếu TAN để tăng tỷ lệ sở hữu lên 0,11% vốn điều lệ vào ngày 16/2. Ông Một cũng đăng ký mua thêm 174.900 cổ phiếu TAN thông qua thỏa thuận và khớp lệnh từ 2/3 đến 24/3. Trong khi đó, Kế toán trưởng, bà Lê Thị Định, dự kiến bán ra 1.700 cổ phiếu vào thời điểm 15/2 – 16/3 để giải quyết tài chính cá nhân. Ngày 16/3 cũng là ngày cuối cùng để đăng ký tham dự ĐHĐCĐ thường niên năm 2023 của công ty tại tỉnh Đắk Nông. Thời gian và tài liệu họp vẫn chưa được công bố.

 

Cà phê Petec (Mã: PCF) sẽ tổ chức ĐHĐCĐ thường niên năm 2023 vào ngày 27/3 tại quận 3, TP HCM. Đơn từ nhiệm của ông Nguyễn Thanh Hải, Thành viên HĐQT, đã được công ty nhận được trước thềm ĐHĐCĐ.

CTCP VinaCafé Biên Hòa (Mã: VCF) dự định tổ chức ĐHĐCĐ thường niên năm 2023 trong tháng 4. Ngày đăng ký cuối cùng là 8/3, ngày giao dịch không hưởng quyền là 7/3.

Cà phê Gia Lai (Mã: FGL) sẽ tổ chức ĐHĐCĐ thường niên trong tháng 4 tại tỉnh Gia Lai. Ngày chốt danh sách cổ đông tham dự là 9/3, ngày giao dịch không hưởng quyền là 8/3. Công ty dự kiến trình cổ đông kế hoạch kinh doanh năm 2023 và bầu mới nhân sự cho nhiệm kỳ 2023 – 2028.

Cà phê Phước An (Mã: CPA) dự kiến tổ chức ĐHĐCĐ thường niên năm 2023 vào ngày 21/4 tại Đắk Lắk. Ngày đăng ký cuối cùng để chốt quyền tham dự là 24/3, ngày giao dịch không hưởng quyền là 23/3.

VI . Sự kiện ảnh hưởng đến thị trường cà phê

Tác động của quyết định tăng lãi suất của Fed đến thị trường cà phê

Theo dự báo, cuộc họp dự kiến của Fed trong tuần 3 tháng 3 sẽ không có tăng lãi suất do sự sụp đổ của Ngân hàng Thung lũng Silicon (SVB). Dự kiến này từ Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs cho thấy tâm lý của thị trường có thể được giải toả và giá cà phê có thể nhận động lực tăng trưởng nếu không có sự điều chỉnh lãi suất từ Fed. Tuy nhiên, nếu lãi suất vẫn tiếp tục tăng, thị trường cà phê có thể phải đối mặt với áp lực tiếp tục trong tương lai.

Nguồn: VietnamBiz

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Việt Nam cảnh báo về tình trạng dư thừa sản lượng sầu riêng trong nước.

Theo báo cáo gần đây của tờ báo trực tuyến VnExpress, diện tích trồng sầu riêng tại Việt Nam đã mở rộng lên đến 131.000 hecta, với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm trung bình là 24,5%, cao nhất trong số các loại cây chính của đất nước. Mặc dù bắt đầu trồng muộn hơn so với các vùng khác, khu vực Tây Nguyên đã vươn lên trở thành khu vực trồng sầu riêng lớn nhất của đất nước với gần 70.000 hecta, tiếp theo là Đồng Bằng Sông Cửu Long, khu vực Đông Nam Bộ và vùng ven biển miền Trung.

Thách thức mở rộng nhanh chóng

Ông Vũ Đức Côn, phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Đắk Lắk thuộc vùng Tây Nguyên, cho biết diện tích trồng sầu riêng của tỉnh hiện đã vượt quá 28.600 hecta và dự kiến sẽ nhanh chóng đạt đến 30.000 hecta trong những năm tới. Sự mở rộng nhanh chóng đáng kể này đã gây ra lo ngại về việc phát triển bền vững của ngành công nghiệp sầu riêng tại Đắk Lắk.

Sự phát triển đáng lo ngại tại Đắk Lắk và Lâm Đồng

Các cơ quan chức năng ở tỉnh kế cận Lâm Đồng cũng đã đưa ra cảnh báo tới các nông dân với cùng lý do. Diện tích trồng sầu riêng của tỉnh này hiện đã đạt khoảng 19.700 hecta, tăng hơn 6.000 hecta so với năm 2021. Dự kiến Lâm Đồng sẽ sản xuất 115.000 tấn sầu riêng trong năm nay và đạt 225.000 tấn mỗi năm vào năm 2027.

mui-sau-rieng

Ở các vùng phía Tây của Việt Nam, nhiều hecta lúa và khu vườn dứa đã được thay thế bằng vườn sầu riêng. Với tất cả sự tăng trưởng nhanh chóng này, chính phủ Việt Nam đã trở nên lo ngại về tình trạng cung cấp sầu riêng có thể quá nhiều. Nguyễn Như Cường, người đứng đầu đơn vị trồng trọt thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đã cảnh báo các nông dân rằng sự mở rộng không kiểm soát và quy mô lớn gần đây có thể dẫn đến các kết quả không thể dự đoán, bao gồm tình trạng cung cấp quá nhiều. Một điểm đáng quan tâm khác là tác động tiềm năng của việc trồng sầu riêng trên đất không phù hợp, có thể làm giảm đáng kể cả năng suất và chất lượng trái cây, gây hại đến uy tín quốc tế của sầu riêng Việt Nam.

Những thách thức trong ngành sầu riêng tại Việt Nam

Hơn nữa, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã nhấn mạnh những thách thức khác trong ngành sầu riêng, bao gồm mối liên kết yếu ớt giữa nông dân và thương nhân, việc xây dựng thương hiệu chưa tối ưu, lao động không đủ trình độ, cơ sở hạ tầng thiếu và cạnh tranh không công bằng.

sau-rieng-tai-vuon

Việt Nam đã đạt được sự cho phép chính thức xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc vào tháng 7 năm 2022. Xuất khẩu nhanh chóng tăng lên, đạt mức 1,5 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm 2023. Đầu tháng 2 năm nay, vào mùa không phải mùa vụ sầu riêng của Việt Nam, giá cửa hàng nông sản tăng lên mức cao kỷ lục từ 150.000 đến 170.000 đồng Việt Nam (6,11-6,92 USD) mỗi kilogram. Hiện nay, tùy thuộc vào loại và chất lượng, giá cửa hàng nông sản của sầu riêng Việt Nam dao động từ 50.000 đến 95.000 đồng (2,04-3,87 USD) mỗi kilogram, vẫn gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái.

Nguồn: Producereport