Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Nông Sản Bền Vững và Quy Mô Mới

“Dollars thực” cho nông dân: FBN và ADM có thể mang lại bền vững “ở quy mô” cho nông sản Mỹ.

Gần đây, Farmers Business Network (FBN) đã thông báo rằng họ đã “mở rộng diện tích đáng kể” đối tác của mình với tập đoàn nông nghiệp Archer Daniels Midland (ADM) để hỗ trợ các nông dân đang làm việc với hoặc chuyển đổi sang các phương pháp nông nghiệp tái tạo.

Ý tưởng là làm cho các phương pháp nông nghiệp như vậy trở nên tiếp cận chuẩn xác hơn đối với nhiều nông dân, hàng hóa ở Bắc Mỹ, và ứng dụng ở quy mô lớn. Quan trọng hơn, chương trình nhằm mục tiêu mang lại cho những nông dân chuyển đổi tức cực nhưng không phải ai cũng thích ứng được.

“Đây có lẽ là nền tảng cơ bản có thể thúc đẩy sự bền vững ở quy mô trong lĩnh vực hàng hóa,” Charles Baron, đồng sáng lập và Giám đốc Tiếp thị của FBN, theo đánh giá trên AgFunder News.

nhung-loai-cay
Những loại cây che phủ đang phát triển giữa các bãi cỏ, còn lại của lúa mì mùa đông. nguồn: iStock

‘Dollars thực’ đến tay nông dân.

“Đây hoàn toàn không phải là một chương trình quy mô nhỏ,” Ông Baron muốn. “Tổng giá trị thưởng dành cho nông dân trong năm nay thông qua các chương trình của ADM / FBN có thể lên đến hơn 22 tỷ đô la. Đây giờ đây là loại chương trình đang triển khai ở tầm quy mô lớn, và thông qua chương trình này ta sẽ nhìn thấy số tiền thực tế bắt đầu quay trở lại với nông dân.”

ADM là một trong những người mua lớn nhất thế giới về ngũ cốc, với 278 trung tâm mua sắm và 182 nhà máy chế biến chỉ tại Bắc Mỹ.

“Chúng tôi đã hợp tác với đến 55,000 nông hộ ở Bắc Mỹ, và điều này đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức đặt ra cho chúng tôi rất nhiều góc nhìn trong lĩnh vực này, họ cung cấp lúa mì trực tiếp cho ADM và vì vậy, họ là một nhà điều hành có ảnh hưởng lớn trong chuỗi cung ứng toàn cầu,” Ông Baron chia sẻ thêm: “Họ cũng hợp tác với các công ty CPG lớn nhất, các công ty thực phẩm lớn nhất, những công ty này sau đó sẽ có khả năng tham gia và khuyến khích các nông hộ các thực hành bền vững.”

Ông mong muốn mọi người thấu hiểu vấn đề ở đây: “ Chiếc chìa khóa này thật sự tạo ra sự khác biệt cho cả ngành nông nghiệp, nó đẩy mạnh nông nghiệp hướng tới vấn đề bền vững trong sản xuất hoặc dùng phần thưởng để thúc đẩy nông hộ ở phát triển quy mô lớn trong lĩnh vực hàng hóa. Chính chúng tôi xem xét điều này là rất cơ bản cho tương lai của hệ thống thực phẩm.”

Ông đưa ra lưu ý rằng khi FBN phát triển qua các năm, họ đã thấy sự quan tâm tăng lên từ phía khách hàng muốn sự hỗ trợ trong các thực hành bền vững và ưu đãi.

“Khi đội ngũ của chúng tôi triển khai cả hai sáng kiến tiếp thị lúa mì và sáng kiến phân tích dữ liệu, việc thực hiện bền vững trở thành một việc sử dụng tự nhiên của thông tin mà các người mua lúa mì của chúng tôi và các đối tác hợp tác xuôi dòng muốn khả năng kích thích,” ông nói.

“Xây dựng liên kết với nhiều đối tác đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt là với các tổ chức như ADM, POET [ethanol], và nhiều đối tác khác, với mục tiêu là trực tiếp thực hiện các bước giám sát và xác nhận cho nông dân có khả năng tham gia vào các chương trình nông nghiệp bền vững hoặc tái tạo và nhận được phần thưởng từ các hoạt động xuôi dòng.”FBN-nong-nghiep

2 triệu acre và vẫn đang đếm

Đôi chút thông tin về “Acre”:

“Acre” là một đơn vị đo diện tích thường được sử dụng trong nông nghiệp và đo lường đất đai. Một acre tương đương với khoảng 4,047 mét vuông hoặc 43,560 feet vuông. Đây là một đơn vị phổ biến để đo kích thước đất nông nghiệp, cũng như trong các hoạt động liên quan đến địa lý và xây dựng.

FBN và ADM đã bắt đầu một sự hợp tác ban đầu vào năm 2022, cho phép khách hàng của ADM sử dụng nền tảng quản lý doanh nghiệp nông nghiệp Gradable của FBN. Chương trình nhằm mục tiêu thưởng cho những nông dân thực hiện các biện pháp bảo tồn như che phủ đất, cày ít hoặc không cày và giảm lượng khí thải.
Kể từ khi khởi động, đối tác này đã thu hút 1,500 người trồng và chiếm hơn 1 triệu acre đất nông nghiệp.

Qua Gradable, FBN cung cấp công nghệ cho chương trình.

Người trồng gửi dữ liệu đến Gradable, nơi có thể xác nhận các thực hành bền vững của họ và tính toán các kết quả môi trường tương ứng. Nông dân có thể truy cập dịch vụ và liên kết thông tin tài khoản ADM của họ thông qua ứng dụng FBN để xem các vé cân, thanh toán và hợp đồng cần thiết khi họ bán ngũ cốc.

“Qua ADM, [Gradable] cung cấp phí thưởng và động viên cho người trồng, lên đến 25 đô la mỗi acre cho cả kết quả hoặc thực hành thực hiện,” Baron lưu ý.

Quá trình tích hợp Gradable “mở cửa cho bất kỳ ai bán ngũ cốc cho ADM,” ông thêm. Cuối cùng, quá trình tích hợp sẽ xử lý cả thanh toán.

Những người trồng này cũng có thể sử dụng ứng dụng FBN để đăng ký vào chương trình tái tạo của ADM, đó là một trong những dự án được hỗ trợ bởi kế hoạch Đối tác của USDA cho chương trình Hàng hóa Thông minh về Khí hậu. Thông qua chương trình tái tạo, người trồng có thể truy cập hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để thực hiện hoặc tiếp tục thực hành nông nghiệp tái tạo.

ADM và FBN đặt mục tiêu mở rộng chương trình tái tạo (re:generations) đến hơn 2 triệu acre, 18 bang tại Hoa Kỳ và ba tỉnh ở Canada vào năm 2023. Dự kiến có hơn 3,000 người trồng sẽ tham gia với các mặt hàng như ngô, đậu nành, lúa và bông.
Rewarding sustainability

Trong bối cảnh hợp tác với ADM, “nông nghiệp tái tạo” không có định nghĩa chuẩn ngành công nghiệp. Theo Baron, nó tập trung vào khả năng thưởng cho các thực hành và kết quả cụ thể về bền vững trên nông trại.

Trước đây, các đối tác như vậy thường phải được thực hiện từng cái một với từng đối tác hoặc công ty cụ thể, ông nói thêm.
“Có nhiều cố gắng trước đây từ các công ty thực phẩm hoặc các đối tác xuôi dòng, họ cố gắng tìm cách tiếp cận trực tiếp nông dân, cách thực hiện giám sát, xác nhận, khuyến khích, đăng ký, một quy trình rất phân mảng. Và cuối cùng, đa phần, điều này không diễn ra trong lĩnh vực hàng hóa.”

Theo Baron, người trồng cần có hướng dẫn rõ ràng, các giao thức hiệu quả và “một công nghệ và quy trình đăng ký đơn giản.”
“Đối với nông hộ, cuối cùng mọi thứ đều phải quy ra câu hỏi thực tế, ‘

Tôi sẽ trả tiền cho những thay đổi đó, như thế nào? Liệu nó có đáng để đưa hoạt động của người nông dân không? Rủi ro là gì, tôi sẽ quản lý và thực hiện những thay đổi này như thế nào?”

“Khi nông hộ bắt đầu mùa vụ mới của họ, chúng tôi mong muốn có thể tham gia giám sát cả quá trình và đưa thực hành kinh doanh vào các chương trình bền vững hoặc chương trình tái tạo, một loạt các cơ hội khác có thể mở ra trước mắt họ.”

Nguồn: Agfundernews.com

Chuyên mục
Báo cáo chính sách NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Tăng Cường Kinh Tế Tuần Hoàn trong Trồng Trọt

Trong lĩnh vực trồng trọt, khái niệm về “kết thúc vòng đời” không còn tồn tại. Thay vào đó, chúng ta hướng tới việc giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, và thu hồi nguyên liệu cùng sản phẩm phụ trong mọi giai đoạn của chuỗi sản xuất, phân phối, chế biến, và tiêu dùng ở nhiều cấp độ từ nhỏ đến lớn. Điều này đồng thời nâng cao chất lượng môi trường và kinh tế, vừa tạo ra sự cân bằng và phát triển toàn diện.

nong-san-thang-11-292Theo Cục Trồng trọt, chiến lược kinh tế tuần hoàn trong trồng trọt sẽ tập trung vào việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, và công nghệ hóa lý để tối đa hóa giá trị và giảm phát sinh phụ phẩm và chất thải. Áp dụng khoa học vào nông nghiệp như: Công nghệ sinh học, công nghệ hoá lý,… nhằm thích ứng tối đa với việc hóa trị và giảm phát sinh phụ phẩm và chất thải, đồng thời tiết kiệm tài nguyên. Tái chế chất thải và phế phẩm không chỉ giảm lãng phí mà còn cung cấp nguyên liệu cho các quy trình sản xuất tiếp theo.

Tại Việt Nam, đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực nông nghiệp. Sử dụng chất thải và nước thải từ chăn nuôi và trồng trọt để sản xuất và sử dụng khí đốt đó là một phương tiện quan trọng. Hơn nữa, còn tồn tại những mô hình kết hợp giữa nông nghiệp, thủy sản và chăn nuôi, cũng như sự hòa quyện giữa nông lâm và vườn-rừng. Tận dụng phụ phẩm nông nghiệp để tạo chất xúc tác và các sản phẩm có giá trị khác đó là một cách tích cực hỗ trợ quá trình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp.

Những mô hình này không chỉ mang lại tăng cường hiệu suất kinh tế mà còn đóng góp vào việc giảm lượng chất thải và phát thải khí nhà kính. Chúng đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Sự đa dạng này của mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đang góp phần tích cực vào sự bền vững và phát triển của ngành nông nghiệp tại Việt Nam.

Mô hình sử dụng phụ phẩm rơm rạ trong trồng lúa không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất lúa mà còn mang lại nhiều lợi ích khác. Việc này giúp đa dạng hóa sản phẩm, giảm sử dụng phân bón hóa học và cải tạo chất lượng đất. Ngoài ra, nguyên liệu từ phụ phẩm rơm rạ cũng được tận dụng trong trồng nấm, và sau khi thu hoạch nấm, bã còn lại được tái chế để bón cho cây trồng.

Theo Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Ninh Thuận, với tổng diện tích đất nông nghiệp gần 291.000ha, trong đó có 84.800ha đất sản xuất nông nghiệp, nông nghiệp tuần hoàn đang phát triển mạnh mẽ tại địa bàn này. Các nỗ lực trong hướng này đang đem lại hiệu quả tích cực, và tốc độ nhân rộng cũng đang tăng mạnh trong những năm gần đây.

Mô hình sản xuất tại các trang trại của GC Food Group Ninh Thuận, như VietFarm, trang trại Nắng và Gió, là một điển hình thành công trong việc áp dụng nông nghiệp tuần hoàn. Trang trại này không chỉ hiệu quả mà còn có những ứng dụng sáng tạo. Để tránh lãng phí, GC Food Group thu gom và ủ men vi sinh từ vỏ và bẹ nha đam từ nhà máy của họ. Theo đúng tiến độ, chúng sẽ được kết hợp với phân gia súc, mục đích chính là tạo thành phân hữu cơ, phục vụ cho nhu cầu nuôi trồng của các loại cây trồng như: nha đam, nho, táo, và đồng cỏ để chăn nuôi gia súc như: bò và cừu.

Thời gian gần đây, việc phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đã trở thành quá trình sản xuất theo chu trình đóng đẹp. Điều này được thực hiện thông qua việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học, và công nghệ hóa lý, cũng như tái chế chất thải và phế phụ phẩm. Sau đó, những nguyên liệu này được tái sử dụng vì mục đích có lợi trong quá trình nuôi trồng, chế biến cho ngành nông nghiệp để tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng cao, giảm lãng phí và thất thoát, đồng thời giảm thiểu lượng chất thải. Điều này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về quan trọng của việc tái sử dụng phụ phẩm và phế phẩm trong quá trình sản xuất, hỗ trợ bảo vệ môi trường.

Hiện tại, trên địa bàn tỉnh, nhiều mô hình kinh tế tuần hoàn đã mang lại kết quả tích cực. Một trong những hình ảnh từ người đi đầu là Công ty TNHH Dalat Hasfarm, đã thực hiện mô hình liên quan đến việc thu gom và xử lý phế phẩm từ các loại cây trồng như: hoa, rau tại trang trại tại xã Đạ Ròn, huyện Đơn Dương với diện tích hơn 200ha nhà kính. Sử dụng công nghệ tích hợp và máy móc hóa cơ giới, đơn vị này đã có thể tái chế khoảng 35.000m3 đến 36.000m3 phế phẩm hàng năm. Mục đích cuối cùng vẫn là nâng cao hiệu suất đầu ra và giảm sức lao động, đánh dấu hành trình đi đến hiện đại hóa sản xuất nhưng không gây hại, ảnh hưởng đến môi trường con người.

Tuy nhiên, theo thông tin từ Cục Trồng trọt, việc khuyến khích phát triển nông nghiệp tuần hoàn ở Việt Nam vẫn đối mặt với một số khó khăn. Nhận thức về nông nghiệp tuần hoàn của các bên liên quan như người quản lý, người sản xuất, cộng đồng và người tiêu dùng vẫn chưa đầy đủ. Cùng nhìn lại đôi chút ta sẽ thấy được việc thúc đẩy nông nghiệp tuần hoàn vẫn chưa được quan tâm đúng đắn nên chưa tạo ra những kết quả tức cực, một phần là chính sách hỗ trợ vẫn chưa hoàn thiện hết.

Đáng chú ý ở đây, công nghệ liên quan đến chế phụ phẩm cây trồng qua việc thu gom, tái chế và xử lý đang mặc đối với thách thức của sự thiếu hụt và phân tán. Các công nghệ hiện nay đòi hỏi tiềm lực kinh tế đáng nể và không thật sự đáp ứng hoàn toàn được nhu cầu của nông dân. Đồng thời, các kết nối bền vững trong hệ thống nông nghiệp, bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, và chế biến, chưa được hình thành theo mô hình kinh tế tuần hoàn, điều này gây ra thiếu sót trong việc tăng giá trị và kéo dài vòng đời sản phẩm, cũng như làm tăng chi phí.

Ngoài ra, còn thiếu tính liên kết và đa ngành trong quá trình phát triển các mô hình nông nghiệp tuần hoàn để tối ưu hóa giá trị cho người sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Quy mô sản xuất thường nhỏ lẻ, chi phí cao, và chưa có các mô hình hiệu quả để giảm giá thành. Thị trường cho các sản phẩm từ nông nghiệp tuần hoàn trong trồng trọt còn hạn chế và chưa đủ minh bạch về việc nhận diện sản phẩm và truy xuất nguồn gốc. Những thách thức này đang tạo ra rào cản đối với sự phát triển bền vững và hiệu quả của nông nghiệp tuần hoàn.

Tại tỉnh Lâm Đồng, phương thức sản xuất nông nghiệp tuần hoàn hiện chỉ áp dụng đối với các mô hình trang trại tổng hợp. Tính chất của nó chưa hoàn toàn khép kín và chủ yếu là tự phát triển. Các doanh nghiệp thu mua chất thải nông nghiệp hiện còn ít, họ chủ yếu tập trung vào việc tái sử dụng cho cây trồng của các chủ trang trại hoặc thương lái nhỏ lẻ.

Vì vậy, trong thời gian sắp tới, cần tăng cường sự thông tin và giới thiệu về mô hình nông nghiệp tuần hoàn, đặc biệt là những mô hình mang lại hiệu suất và ảnh hưởng tích cực. Điều này sẽ hỗ trợ việc lan tỏa và mở rộng chúng trong quá trình sản xuất. Đồng thời, việc xây dựng các chính sách khuyến khích và ưu đãi cho các doanh nghiệp áp dụng kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp trở nên vô cùng quan trọng, nhằm khuyến khích sự áp dụng rộng rãi và bền vững của chúng trong cộng đồng sản xuất. Cần có chính sách hỗ trợ cho nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực này.

Để tạo ra sự đồng bộ và kết nối trong cộng đồng, cần phát triển môi trường khuyến khích sự liên kết giữa trang trại, doanh nghiệp và cộng đồng. Điều này sẽ đóng góp vào sự ổn định và bền vững trong chuỗi sản xuất và môi trường, đồng thời hướng tới một nền kinh tế xanh. Sử dụng công nghệ để tái chế và xử lý phụ phẩm nông nghiệp thành phân bón hữu cơ cũng là một biện pháp quan trọng để hỗ trợ quá trình sản xuất. Mọi nỗ lực này nhằm đạt được mục tiêu phát triển nông nghiệp tuần hoàn và sinh thái trong lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
Hạt ( tiêu, điều, mắc ca ... ) XUẤT NHẬP KHẨU

Hiệp hội điều đưa ra cảnh báo về chất lượng điều từ các đối tác lớn

Vinacas cảnh báo về chất lượng hạt điều Việt Nam, mục tiêu xuất khẩu 3,2 tỷ USD năm nay được kỳ vọng đạt được

Vinacas, Hiệp hội Điều Việt Nam, thông báo rằng họ đã nhận được văn bản chính thức từ 2 hiệp hội ở châu Âu, Mỹ và một số khách hàng lớn, cảnh báo về việc chất lượng hạt điều Việt Nam đang có xu hướng giảm dần.

Vào chiều ngày 10/10, tại TP Hồ Chí Minh, Vinacas đã tổ chức một buổi gặp gỡ với báo chí để thông tin về tình hình sản xuất – kinh doanh của ngành điều trong 10 tháng đầu năm 2023, đồng thời trình bày phương hướng hoạt động trong 2 tháng cuối năm 2023 và cả năm 2024. Ông Phạm Văn Công, Chủ tịch Vinacas, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường kiểm soát chất lượng và an toàn thực phẩm trong bối cảnh thời tiết ẩm ướt hiện tại, gây nguy cơ phát sinh nấm mốc và côn trùng gây hại. Ông cũng tự tin rằng ngành điều sẽ đạt được mục tiêu xuất khẩu 3,2 tỷ USD trong năm nay dựa trên kết quả xuất khẩu và đơn hàng hiện tại. Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh rằng các doanh nghiệp cần phải tăng cường nỗ lực để duy trì uy tín thương hiệu của ngành điều Việt Nam.

dieu-hat

Vinacas thông báo về cảnh báo chất lượng hạt điều từ Hiệp hội châu Âu và Mỹ

Vinacas thông báo rằng các hiệp hội ở châu Âu và Mỹ đã cảnh báo về chất lượng của hạt điều Việt Nam. Ông Phạm Văn Công, Chủ tịch Vinacas, nhấn mạnh rằng việc duy trì chất lượng sản phẩm điều xuất khẩu là quan trọng đối với sự sống còn của ngành và doanh nghiệp, đặc biệt trước sức ép cạnh tranh từ các nước châu Phi. Ông cũng lưu ý về việc giá bán của hạt điều Việt Nam đang thấp hơn so với các nước khác, đặc biệt là Ấn Độ.

Tại buổi gặp gỡ báo chí, ông Bạch Khánh Nhựt, Phó Chủ tịch Vinacas, thông báo rằng số lượng cảnh báo về mất an toàn thực phẩm đang tăng vào cuối năm. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là trong giai đoạn cao điểm cuối năm. Vinacas cũng đã nhận được văn bản chính thức từ 2 hiệp hội ở Mỹ và châu Âu cùng một số khách hàng lớn, cảnh báo về xu hướng giảm chất lượng hạt điều Việt Nam, với các chỉ tiêu như sâu bệnh, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và tạp chất lạ.

chat-luong-dieu-nam-nay

Kỳ vọng xuất khẩu điều đạt 3,2 tỷ đô la trong năm 2023

Ông Nhựt nhấn mạnh rằng Vinacas cần chỉnh đốn các doanh nghiệp để đảm bảo sự ổn định trong việc mua bán. Tuy nhiên, doanh nghiệp không phải là thành viên của Vinacas nên họ không thể can thiệp trực tiếp. Ông cảnh báo rằng sự thiếu sót kiểm soát có thể ảnh hưởng đến uy tín của ngành điều trong tương lai, và việc khôi phục uy tín có thể mất nhiều năm.

Đại diện Vinacas cho biết rằng hiện tại nguồn cung hạt điều trên thế giới đủ để đáp ứng nhu cầu chế biến trong 9 tháng tới. Nếu vụ mùa 2024 diễn ra đúng dự kiến, không có dự đoán về thiếu hụt nguyên liệu. Ngoài ra, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu hạt điều đã nhập khẩu một lượng lớn nguyên liệu để đáp ứng mùa tiêu thụ cao điểm vào cuối năm và dịp tết.

Nguồn: Vinacas.com

Chuyên mục
AGRITECH Startup thế giới

Amatera huy động 1,6 triệu USD mở rộng nền tảng nuôi trồng thông minh.

Thông tin tiết lộ: Công ty mẹ AgFunderNews, AgFunder, là một nhà đầu tư của Amatera.

  • Amatera, một công ty khởi nghiệp ở Pháp, phát triển các loại cây lâu năm thông minh về khí hậu bao gồm một loại cà phê mới với sự chịu đựng và sản lượng tương đương với Robusta và hương vị của Arabica, vừa hoàn tất vòng gọi vốn trước mùa giống 1,5 triệu Euro (1,6 triệu USD) do PINC, cơ quan mạo hiểm thuộc công ty thực phẩm và đồ uống Paulig, dẫn đầu.
  • Vòng gọi vốn này – được hỗ trợ bởi Exceptional Ventures, Mudcake, Joyance Partners, Agfunder và các doanh nhân sinh học bao gồm Nicolas Morin-Forest từ Gourmey – sẽ giúp công ty khởi nghiệp có trụ sở tại Paris, Pháp mở rộng nền tảng nuôi trồng không biến đổi gen của mình.
  • “Có một sự thật cà phê không được quan tâm và nghiên cứu như các loại cây khác. Chúng tôi rất vui khi giải pháp đầu tiên của Amatera liên quan đến cà phê, điều này rất quan trọng vì cà phê là một trong các sản phẩm quan trọng đối với Paulig” Marika King, trưởng nhóm PINC, nói. “Nhiều cuộc thảo luận của chúng tôi với các nhà đầu tư và khách hàng đã cho ta thấy nhiều vấn đề cần quan tâm.”

Robusta, không đắng; Arabica, không caffeine:

Amatera-huy-dong

Thành lập vào tháng 5 năm 2022 bởi Omar Dekkiche (CEO) và Tiến sĩ Lucie Kriegshauser, họ đã gặp nhau thông qua Entrepreneur First, một nền tảng kết nối các nhà sáng lập trong nhiều lĩnh vực. Nền tảng phát hiện đặc điểm và lai tạo cây trồng tăng tốc của Amatera “có tiềm năng phát triển cây trồng chịu đựng được nhiều loại khí hậu hơn và bước ra thị trường dễ dàng hơn so với các phương pháp lai tạo truyền thống,” Ryan Lee của AgFunder đã nói.

Mục tiêu đầu tiên của công ty khởi nghiệp là loại đồ uống được tiêu thụ nhiều thứ hai trên thế giới. Cà phê, một loại cây đang thu hút sự chú ý lớn trong lĩnh vực công nghệ nông nghiệp và thực phẩm khi biến đổi khí hậu ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất và làm giảm diện tích đất có sẵn để trồng trọt.

Hiện tại, Amatera có hai chương trình lai tạo. Chương trình đầu tiên là ‘Robustica’, một loại cà phê (Robusta) không đắng, đã buộc loại có thể chịu đựng khí hậu mạnh mẽ hơn như loại cà phê Arabica rơi vào thế bị áp đảo. Chương trình thứ hai là một loại cà phê Arabica tự nhiên và  không chứa caffeine.

Kết hợp tế bào thực vật với quá trình tiến hóa nhanh chóng của tự nhiên.

Trong cả hai trường hợp, Amatera đều sử dụng tế bào thực vật (nuôi cấy tế bào thực vật trong môi trường ngoại vi thay vì nuôi cây trước tiên trong nước hoặc đất) để phát triển các loại cây của mình, tạo ra biến đổi gen tự nhiên bằng các phương pháp vật lý và hóa học, nhưng không sử dụng kỹ thuật chỉnh sửa gen hoặc biến đổi gen truyền thống, Dekkiche chia sẻ với AgFunderNews trong một cuộc phỏng vấn gần đây.

Tiến sâu vào việc nghiên cứu chúng tôi đã tìm ra môi trường tốt nhất cần 2 yếu tố, đầu tiên yếu tố từ môi trường tự nhiên và thứ hai là tế bào của giống cây trồng ( cà phê). Từ đó, chúng tôi đẩy mạnh quá trình tiến hóa của chúng một cách nhanh chóng. Điều này khác biệt với hầu hết các công ty khác, mà họ thường tập trung vào nghiên cứu về hạt giống hoặc chỉnh sửa gen của cây trồng. Chúng tôi làm việc với tế bào, và sau khi có được những gì chúng tôi mong muốn, chúng tôi có thể tái tạo cây mà có thể sinh trưởng trên cánh đồng.”

Ông thêm: “Cà phê đang bị đe dọa, nhưng ngày nay có thể mất hơn 20 năm để tạo ra một loại cà phê mới với các kỹ thuật lai tạo thông thường. Chúng tôi đang tăng tốc quá trình lai tạo của cây lâu năm bao gồm cà phê để tạo ra các loại mới nhanh hơn như một loại Robusta có hương vị giống như Arabica. Chúng tôi cũng đang phát triển một loại Arabica không chứa caffeine tự nhiên, điều này tiết kiệm rất nhiều thời gian, tiền bạc và năng lượng, vì cách tiêu chuẩn để làm giảm lượng caffeine trong cà phê là rửa hạt bằng dung môi hóa học.”

“Phương pháp của chúng tôi dựa trên việc tăng tốc tiến hóa tự nhiên của cây, vì vậy chúng tôi không chỉnh sửa gen, mà làm tăng tốc tiến hóa tự nhiên bằng cách xác định ở mức tế bào dòng đã đột biến theo cách mà chúng tôi muốn, dù đó là để giảm đắng hoặc không chứa caffeine.

“Điều chúng tôi hướng đến là giống cây tự nhiên, không có sự can thiệp đối với gen(GMO) của chúng . Chúng có thể được bán trên thị trường hạt cà phê thương mại mà không cần phải xin sự chấp thuận từ các cơ quan quản lý. Nó mang lại lợi ích lớn trong việc thương mại sau này.”

Trong khi có một số loài cà phê không chứa caffeine tự nhiên có thể được phát triển, chúng không có hương vị hoặc hiệu suất canh tác như loại Arabica, ông nhận xét.

“Phương pháp của chúng tôi dựa trên việc tăng tốc tiến hóa tự nhiên của cây tại mức tế bào, đó là một hướng đi thay thế không dùng chế độ gen học. Công nghệ như vậy không mới, nhưng áp dụng nó cho các loại cây lâu năm như cà phê thì mới, vì chúng phức tạp hơn và đòi hỏi nhiều đột phá trong sinh học tế bào. Điều này cũng là lý do tại sao các kỹ thuật chỉnh sửa gen gặp khó khăn. Công nghệ của chúng tôi thực sự là một yếu tố thay đổi trò chơi và mở ra cơ hội áp dụng nó cho nhiều loại cây khác như ca cao, chuối và nho hoặc thậm chí là các loại thực vật dược phẩm.” – Lucie Kriegshauser, Giám đốc Công nghệ, Amatera

ca-phe

Lần đầu sản xuất vào năm 2027

Dekkiche, người đang mở rộng đội ngũ trong năm nay với các chuyên gia trong lĩnh vực sinh học tế bào và sinh học phân tử, giải thích: “Chúng tôi dự kiến sẽ hoàn thành toàn bộ quá trình phát triển tại mức tế bào [trong việc nuôi tế bào thực vật] vào cuối năm 2024, sau đó chúng tôi sẽ bắt đầu sản xuất cà phê ở đồng, và điều này sẽ mất ít nhất hai năm, do đó chúng tôi dự kiến sẽ sản xuất lần đầu vào năm 2027.”

Nhưng Amatera đã làm thế nào? Liệu các biến thể mới sẽ có cùng hiệu suất và năng suất mà ngành công nghiệp yêu cầu không?

Theo Dekkiche: “Chúng tôi biết các gen chịu trách nhiệm về độ đắng hoặc caffeine, vì vậy chúng tôi có thể chọn lọc một cách nghiêm ngặt và chúng tôi không thấy chúng ảnh hưởng đến các khía cạnh khác của sự phát triển của cây.”

Còn đối với mô hình kinh doanh, có hai phương pháp, ông nói. Phương pháp đầu tiên là cấp giấy phép các biến thể cho các công ty giao dịch cà phê và phương pháp thứ hai là phát triển các biến thể mới – bao gồm mọi thứ từ cà phê đến cacao, chuối và nho – trong kết hợp với các công ty thực phẩm lớn.

“Hầu hết các vườn cà phê Arabica trên thế giới được thiết lập với các biến thể phát sinh từ các nỗ lực lai tạo bắt đầu cách đây khoảng 50 năm. Tuy nhiên, những biến thể này dễ bị bùng phát dịch bệnh và không thích nghi tốt với điều kiện khí hậu thay đổi quan sát được ở nhiều khu vực trồng cà phê. Dự kiến ​​nhiệt độ đang tăng sẽ làm giảm diện tích phù hợp để trồng cà phê Arabica lên đến 50% vào năm 2050 và 26% sản lượng cà phê toàn cầu đã mất hàng năm do dịch bệnh.” Omar Dekkiche, CEO, Amatera

Nguồn: Agfundernews.com

Chuyên mục
TIN NÔNG NGHIỆP Xuất nhập khẩu

Xuất khẩu nông sản Việt và những gam màu sáng tối cuối năm 2023.

Trước những biến động tức cực và tiêu cực của xuất khẩu nông lâm thủy sản trong gần 10 tháng qua và những dự báo về triển vọng hay thách thức trong 2 tháng còn lại của năm 2023, các doanh nghiệp trong ngành cần chặt chẽ theo dõi tình hình. Từ đó, họ có thể đưa ra các chiến lược phù hợp nhằm tìm kiếm cơ hội tăng trưởng trong thời gian còn lại của năm.

Vào hạ tuần tháng 10/2023, một container chứa 10 tấn bánh chưng xanh từ HTX Bà Ba Hội (TP.Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam) đã được vận chuyển đi Mỹ để phục vụ người Việt tại đó chuẩn bị cho lễ Tết truyền thống.

Những tín hiệu mang chiều hướng tích cực

Mặc dù giá trị của hàng hóa được đề cập vẫn khiêm tốn, nhưng nó cũng là một dấu hiệu tích cực cho sự hợp tác kinh tế khu vực, bởi nó đóng góp vào việc thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản trong mùa cuối năm này.

chuyen-bien-tuc-cuc-tieu-cuc-xuat-khau
Xuất khẩu hạt điều là điểm sáng trong 10 tháng qua và dự báo tiếp tục tăng trong 2 tháng cuối năm với nhu cầu tăng cao vào dịp lễ, tết.

Mặc dù giá trị của các sản phẩm này còn khiêm tốn, nhưng đây cũng là một tín hiệu tích cực cho khu vực kinh tế hợp tác. Điều này đã giúp ngành nông lâm thuỷ sản tăng cường xuất khẩu nông sản trong mùa tiêu dùng cuối năm.

Về lĩnh vực thủy sản, xuất khẩu đang gặp phải nhiều thách thức khi chúng ta tiến vào giai đoạn cuối năm. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp đã ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể nhờ sự linh hoạt và thích ứng nhanh chóng với biến đổi thị trường. Có dấu hiệu cho thấy sự suy giảm trong xuất khẩu đang chậm lại, và nhu cầu của thị trường cuối năm đang dần tăng lên. Ông Nguyễn Văn Đạo, Tổng giám đốc Công ty Thủy sản Gò Đàng (Đồng Tháp), cho rằng thị trường thủy sản sẽ có sự lạc quan hơn.

Theo dự báo được cập nhật từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (Vasep), với sự hồi phục dần từ các thị trường khác nhau, xuất khẩu thủy sản trong quý 4/2023 có thể đạt 2,4 tỷ USD, tương đương với cùng kỳ năm trước. Điều này sẽ giúp đưa tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả năm 2023 lên mức 9 tỷ USD, giảm 17% so với năm 2022. Sự hồi phục trong xuất khẩu thủy sản trong tương lai sẽ phụ thuộc chủ yếu vào hai thị trường quan trọng: Mỹ và Trung Quốc. Cả hai thị trường này đều cho thấy tín hiệu tích cực về tăng cầu. Các đơn hàng từ cả hai thị trường này đang tăng trở lại, nhưng giá xuất khẩu vẫn ở mức thấp hơn so với cùng kỳ năm trước.

Gần đây, trong báo cáo cập nhật về hoạt động kinh doanh trong quý 4/2023 của CTCP Vĩnh Hoàn (VHC) – một trong những doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực xuất khẩu cá tra, Bộ phận phân tích thuộc Công ty chứng khoán VCBS đã chỉ ra rằng nhu cầu nhập khẩu đang có dấu hiệu phục hồi nhẹ trong quý 4/2023, đặc biệt khi các dịp lễ hội ở phương Tây đang đến gần.

Tuy nhiên, bộ phận phân tích cũng đã cảnh báo về rủi ro từ việc tồn kho cá tra ở các nước nhập khẩu vẫn đang ở mức cao. Dự báo cho thấy nhu cầu nhập khẩu có thể hồi phục mạnh mẽ trở lại chỉ sau đầu tháng 6/2024. Sự kéo dài của tình trạng lạm phát ở các quốc gia nhập khẩu cũng đang ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng.

Bên cạnh nỗ lực phục hồi của ngành thủy sản, trên con đường xuất khẩu nông lâm thủy sản vào cuối năm, một trong những xu hướng tăng trưởng rõ ràng nhất là xuất khẩu gạo. Nhiều doanh nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long đã tận dụng cơ hội này để mở rộng xuất khẩu, thông qua việc đàm phán về giá cả hợp lý nhằm mang lại lợi ích cho nông dân và doanh nghiệp.

Cho đến giữa tháng 10/2023, Việt Nam đã xuất khẩu gần 6,73 triệu tấn gạo, đem về hơn 3,73 tỷ USD, tăng 17% về lượng và tăng mạnh lên 34,5% so với cùng kỳ năm trước.

Với con số này, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đã vượt qua mốc 3,65 tỷ USD (đạt được vào năm 2011), chính thức thiết lập kỷ lục mới sau 34 năm tham gia vào thị trường thế giới. Theo tính toán từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, theo kịch bản cao nhất, dự kiến Việt Nam sẽ xuất khẩu khoảng 7,8 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch từ 4,2 đến 4,5 tỷ USD trong năm nay.

Cần có biện pháp cụ thể để tìm cơ hội tăng trưởng

Trong lĩnh vực xuất khẩu rau quả, dự báo gần đây cho thấy kim ngạch xuất khẩu cả năm có thể đạt khoảng 5,5 tỷ USD, trong đó, sầu riêng trở thành nguồn lực chủ lực giúp cho kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng trưởng vượt bậc. Rau quả được xem là một nhóm mặt hàng xuất khẩu có sự tăng trưởng đáng kể nhất trong gần 10 tháng qua, đạt 4,9 tỷ USD, tăng 78,4% so với cùng kỳ năm 2022.

Để đạt được con số xuất khẩu ấn tượng như vậy, cũng cần phải nhìn nhận sự linh hoạt và nỗ lực từ các doanh nghiệp trong ngành rau quả, thông qua việc mở rộng thị trường, tăng cường kết nối giao thương, đầu tư vào quy trình chế biến sâu, cũng như áp dụng các phương pháp tiên tiến.

Theo chia sẻ của ông Nguyễn Văn Hiển, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Thương mại và Đầu tư Chanh Việt (Long An), công ty đang hợp tác với các đối tác nhập khẩu theo hình thức Doanh nghiệp với Doanh nghiệp (B2B) để đem nguyên liệu từ công ty nhập khẩu, từ đó chế biến sâu hơn cho sản phẩm trái chanh leo.

Hơn nữa, theo ông Hiển, để duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu, công ty đang tích cực tìm kiếm khách hàng và thị trường mới. Đồng thời, công ty tiếp tục tập trung vào việc phục vụ nhóm khách hàng hiện tại để đáp ứng nhu cầu của họ.

Trong quý 4 này, cơ hội vẫn tiếp tục mở ra lớn cho việc xuất khẩu rau quả khi nhu cầu tiêu thụ tăng cao trong mùa lễ hội, tạo ra tiềm năng tăng trưởng xuất khẩu còn nhiều. Tuy vấn đề lớn là làm thế nào các doanh nghiệp, hợp tác xã có thể tận dụng cơ hội này để tăng kim ngạch xuất khẩu.

Ngoài ra, trong tập hợp các màu sắc tươi sáng của việc xuất khẩu nông sản tính đến thời điểm này, cũng cần đề cập đến việc xuất khẩu hạt điều. Dự kiến, hoạt động xuất khẩu hạt điều của Việt Nam sẽ tiếp tục sôi động trong hai tháng cuối năm, do nhu cầu tiêu thụ hạt điều tăng cao để đáp ứng cho các dịp lễ và tết. Trong 9 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đạt khoảng 456 nghìn tấn, trị giá 2,6 tỷ USD, tăng 19,6% về lượng và tăng 14,3% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.

Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu tích cực, vẫn có những dấu hiệu tiêu cực đối với xuất khẩu nông sản và lâm thủy sản trong gần 10 tháng qua, đặc biệt là đối với 5 mặt hàng cụ thể: thủy sản, chè, hồ tiêu, sắn, cà phê.

Chẳng hạn, kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu tính từ đầu năm đến giữa tháng 10/2023 đã giảm 10% so với cùng kỳ năm trước. Dự báo cho thấy khả năng sẽ tiếp tục giảm trong 2 tháng còn lại của năm 2023 do các nhà nhập khẩu hầu như đã đủ hàng vào thời điểm hiện tại.

Không chỉ vậy, các báo cáo gần đây từ Nedspice Group và Simexco Daklak đều đưa ra nhận định rằng sản lượng hồ tiêu của Việt Nam có thể giảm 15% vào năm 2024.

Tương tự, kim ngạch xuất khẩu sắn trong gần 10 tháng qua cũng đã giảm gần 10%. Tuy nhiên, có khả năng hồi phục tăng trưởng xuất khẩu trong ngành này trong những tháng cuối năm 2023, đặc biệt là trong mùa tiêu thụ cao điểm của các sản phẩm thực phẩm tại thị trường Trung Quốc. Điều này dự kiến sẽ có tác động tích cực đến triển vọng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Việt Nam sang thị trường này.

Nhìn chung, trước những tín hiệu tích cực và tiêu cực trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản và lâm thủy sản trong gần 10 tháng qua cùng với những dự báo triển vọng và thách thức trong thời gian tới, việc các doanh nghiệp trong ngành nắm bắt chặt chẽ tình hình là rất cần thiết. Điều này sẽ giúp họ thiết lập các chiến lược phù hợp nhằm tìm kiếm cơ hội tăng trưởng trong giai đoạn cuối năm.

Nguồn: Vinacas.com.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

FAO: Biến đổi chỉ số lương thực tháng 10

Trong tháng 10, giá cả của nhiều mặt hàng thực phẩm trên thị trường thế giới đã ghi nhận sự giảm nhẹ, giảm tỷ lệ 0,5% so với tháng 9. Chỉ có một số ít sản phẩm thuộc nhóm sữa và sản phẩm sữa có sự tăng giá.

dau-an-gao-duong

Theo thông tin từ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), chỉ số giá thực phẩm, được sử dụng để theo dõi biến động hàng tháng về giá cả quốc tế của các sản phẩm lương thực và thực phẩm quan trọng, đã đạt mức trung bình là 120,6 điểm trong tháng 10, đồng nghĩa với việc giảm 10,9% so với cùng kỳ năm trước.

Cụ thể, trong tháng này, Chỉ số giá ngũ cốc đã giảm 1% so với tháng trước. Giá gạo trên thị trường thế giới cũng giảm 2%, đặc biệt khi nhu cầu nhập khẩu quốc tế trên toàn cầu giảm sút. Trong khi đó, giá lúa mì đã giảm 1,9% do nguồn cung cấp dồi dào từ Mỹ và sự cạnh tranh sắc nét giữa các nước xuất khẩu. Trong khi đó, giá ngô đã có mức tăng nhẹ, chủ yếu là do giảm cung cấp từ Argentina.

Trong tháng 9, chỉ số giá dầu thực vật đã giảm 0,7% so với tháng trước, với sự dẫn đầu bởi giá dầu cọ giảm do sản lượng tăng theo mùa và nhu cầu nhập khẩu toàn cầu giảm, mặc dù điều này đã được bù đắp bởi sự tăng giá của dầu đậu nành, hướng dương và hạt cải dầu. Giá dầu đậu nành đang tăng vì cầu từ ngành dầu diesel sinh học đạt mức mạnh mẽ.

Chỉ số giá đường đã ghi nhận sự giảm 2,2% trong tháng, mặc dù vẫn cao hơn 46,6% so với cùng kỳ năm trước. Sự giảm này chủ yếu đến từ tốc độ sản xuất mạnh mẽ tại Braxin, mặc dù lo ngại về triển vọng nguồn cung cấp toàn cầu chặt chẽ hơn trong tương lai đã hạn chế phần nào sự giảm giá.

Chỉ số giá thịt đã giảm 0,6% do nhu cầu nhập khẩu chậm, đặc biệt từ khu vực Đông Á, dẫn đến giảm giá thịt lợn quốc tế. Tuy nhiên, điều này đã được bù đắp bởi sự tăng nhẹ của giá thịt gia cầm, thịt bò và thịt cừu.

Trong khi đó, chỉ số giá sữa đã tăng 2,2% trong tháng 10, chấm dứt chuỗi giảm giá kéo dài 9 tháng. Sự tăng này chủ yếu đến từ giá sữa bột toàn cầu tăng mạnh do nhu cầu nhập khẩu gia tăng từ cả nguồn cung ngắn hạn và dài hạn, cũng như một số không ổn về tác động của điều kiện thời tiết El Niño đối với sản lượng sữa sắp tới ở khu vực Thái Bình Dương.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
Hạt ( tiêu, điều, mắc ca ... ) XUẤT NHẬP KHẨU

Uy tín ngành điều Việt Nam bị đe dọa cần được chấn chỉnh.

Xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức về chất lượng sản phẩm và giá cả. Các nhà nhập khẩu liên tục phản ánh về chất lượng không đạt yêu cầu, đe dọa uy tín của ngành điều trong nước. VINACAS đã đưa ra các khuyến nghị và tư vấn kỹ thuật nhằm cải thiện chất lượng và nâng cao ý thức của các doanh nghiệp sản xuất để duy trì vị thế của hạt điều Việt Nam trên thị trường quốc tế.

hat-dieu-viet-nam

Phản hồi từ khách hàng

Tổng thư ký VINACAS, ông Đặng Hoàng Giang, đã nhấn mạnh rằng chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Joe Biden tới Việt Nam gần đây đã thúc đẩy hoạt động thương mại của đất nước, đặc biệt là xuất khẩu hạt điều sang thị trường Mỹ và thị trường toàn cầu. VINACAS đã ghi nhận sự tăng mạnh trong việc xuất khẩu hạt điều trong tháng 8 và tháng 9, đặc biệt là tại thị trường Mỹ. Ông cũng tin tưởng rằng với nhu cầu nhập khẩu hạt điều gia tăng vào cuối năm tại thị trường Mỹ và châu u, ngành điều sẽ đạt được mục tiêu xuất khẩu đặt ra 3,1 tỷ USD trong năm 2023.

Mặc dù lượng xuất khẩu hạt điều của Việt Nam từ đầu năm đến nay ghi nhận mức tăng trưởng đáng kể, tuy nhiên giá cả lại trải qua mức giảm đáng kể. Số liệu từ Tổng cục Hải quan cho thấy Việt Nam đã xuất khẩu tổng cộng 481.102 tấn hạt điều, trị giá 2,75 tỷ USD tính đến ngày 15/10. Mặc dù lượng xuất khẩu tăng 20% so với cùng kỳ năm 2022, nhưng giá trị xuất khẩu chỉ tăng 14%. Sự chênh lệch này đến từ việc giá hạt điều xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn so với năm trước, đặc biệt là trong nhiều tháng của năm nay, có thời điểm giá cả giảm mạnh đến 5-6% so với cùng kỳ. Theo VINACAS, giá trung bình hạt điều xuất khẩu trong 8 tháng gần đây chỉ đạt 5.651 USD/tấn, thấp hơn 2,51% so với cùng kỳ năm 2022.

Ngoài tác động từ tình hình kinh tế toàn cầu, một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự giảm giá của hạt điều là do vấn đề chất lượng. Chủ tịch VINACAS, ông Phạm Văn Công, đã lên tiếng cho biết rằng một số vấn đề liên quan đến chất lượng sản phẩm đã khiến giá hạt điều Việt Nam hiện thấp hơn giá của hạt điều từ Ấn Độ – đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Việt Nam trên thị trường xuất khẩu. Để giải quyết tình trạng này, việc can thiệp kịp thời từ các cơ quan chức năng cùng với sự tập trung của các doanh nghiệp sản xuất là cần thiết để đảm bảo chất lượng và tăng cường sự cạnh tranh của hạt điều Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Tình trạng xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đang gặp phải nhiều khó khăn do phàn nàn liên tục từ các khách hàng quốc tế về chất lượng sản phẩm. VINACAS đã tiếp nhận nhiều phản hồi tiêu cực từ các hiệp hội và khách hàng lớn tại châu u, Mỹ về chất lượng hạt điều xuất khẩu, đặc biệt là vấn đề sâu bệnh, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, và tạp chất không mong muốn. Những vấn đề này đang gây ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của ngành điều Việt Nam.

Phó Chủ tịch thường trực VINACAS, ông Bạch Khánh Nhựt, đã lý giải rằng hiện tại Việt Nam đang bước vào mùa mưa cao điểm, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho côn trùng gây hại sự sinh sôi. Trong khi đó, việc sản xuất hạt điều cần phải được thực hiện nhanh chóng để đáp ứng lượng đơn hàng tăng cao vào cuối năm, dẫn đến việc kiểm soát chất lượng không được triển khai một cách chặt chẽ như mong muốn.

Ông Nhựt cũng nhấn mạnh rằng nếu không có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, khả năng mua hạt điều với giá cao sẽ trở nên khó khăn đối với các nhà nhập khẩu trong tương lai gần. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách đối với các doanh nghiệp sản xuất hạt điều Việt Nam cần phải tăng cường quản lý chất lượng và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định liên quan để bảo vệ uy tín và vị thế của sản phẩm điều trên thị trường quốc tế.

Cần Sự Hỗ Trợ Từ Các Địa Phương

Trước tình trạng lo ngại về chất lượng sản phẩm mà các nhà nhập khẩu đã cảnh báo, lãnh đạo VINACAS đề xuất rằng việc giải quyết và ngăn chặn tình trạng này tái diễn trong tương lai phụ thuộc chủ yếu vào ý thức của các doanh nghiệp và sự kiểm soát từ phía chính quyền địa phương. Một điểm đáng chú ý là các doanh nghiệp mà đã bị các nhà nhập khẩu phản ánh không phải là thành viên của VINACAS, do đó hiệp hội gặp khó khăn khi muốn can thiệp.

Theo ông Công, VINACAS chỉ có khả năng đưa ra khuyến cáo, tuy nhiên, để giải quyết vấn đề này cần sự can thiệp mạnh mẽ hơn, và điều này đòi hỏi sự tham gia tích cực của các lãnh đạo cấp địa phương cùng với sự hỗ trợ từ các cơ quan chức năng.

Các cơ quan UBND ở các khu vực với nhà máy chế biến điều xuất khẩu cần chú trọng kiểm tra và quản lý chất lượng sản phẩm, đảm bảo sự an toàn về thực phẩm tại các doanh nghiệp.Việc này sẽ đóng góp vào việc duy trì uy tín và vị thế của cả doanh nghiệp, địa phương, và ngành điều Việt Nam trên thị trường quốc tế. Nếu không có biện pháp kiểm soát kịp thời, tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến uy tín, có thể dẫn đến mất mát không hồi phục được trong một thời gian dài” – ông Nhựt đã chia sẻ quan điểm của mình.

Thực tế, VINACAS đã thường xuyên đưa ra các biện pháp tư vấn kỹ thuật để giúp các doanh nghiệp xử lý hiệu quả các vấn đề mà khách hàng phản ánh. Để giải quyết vấn đề côn trùng, VINACAS đã khuyến cáo các doanh nghiệp nên xây dựng các rèm che kín trong phòng xử lý mẫu để ngăn ngừa sâu mọt từ bên ngoài có thể bay vào. Hơn nữa, hạn chế sản xuất vào buổi tối cũng được đề xuất do đây là thời điểm mà côn trùng hoạt động nhiều.

Ngoài ra, VINACAS cũng đã đưa ra khuyến cáo rằng trong mùa mưa, các doanh nghiệp cần sấy hàng hóa khô hơn thông thường để đảm bảo rằng trong trường hợp có hiện tượng hồi ẩm, sản phẩm vẫn đạt được tiêu chuẩn và không bị tác động bởi sâu bệnh trong quá trình vận chuyển ra nước ngoài. Đồng thời, việc tách khu vực sản xuất với khu vực đóng gói cũng được khuyến nghị để tránh tình trạng lây nhiễm chéo.

Một vấn đề khác mà khách hàng nước ngoài thường phàn nàn là về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong sản phẩm. Ông Nhựt đã giải thích rằng do các doanh nghiệp muốn ngăn chặn sự sống của sâu bệnh, nên lượng thuốc diệt côn trùng đã được tăng lên. Tuy nhiên, vì lý do đơn hàng quá nhiều, các doanh nghiệp không tuân theo thời gian cách ly và đã đóng gói hàng hóa trước khi thuốc có thể phân hủy theo lộ trình kỹ thuật, từ đó để lại dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong sản phẩm. Do đó, VINACAS đã khuyến nghị các doanh nghiệp tuân thủ quy định về thời gian ủ thuốc để đảm bảo chất lượng sản phẩm.

Nguồn:Vinacas

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Thúc đẩy sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học.

Ngày 2/11, tại TP. Hồ Chí Minh, Bộ NN&PTNT tổ chức hội nghị về “Sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học”, với sự tham dự và chủ trì của Thứ trưởng Hoàng Trung.

Thu-truong-Hoang-Trung-phat-bieu-tai-hoi-nghi
Thu-truong-Hoang-Trung-phat-bieu-tai-hoi-nghi

Trong bài phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Hoàng Trung đã đề cập đến việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học với nhiều lợi ích như bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, đảm bảo an toàn cho người sử dụng, và không để lại tồn dư thuốc trong nông sản, từ đó đảm bảo chất lượng đầu ra sản phẩm và đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.

Ông cũng đánh giá cao nỗ lực của các doanh nghiệp, hiệp hội và địa phương trong việc thúc đẩy ứng dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Ông nhấn mạnh rằng việc xây dựng mô hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học, thay đổi nhận thức và tư duy của cộng đồng, cùng với việc phát triển sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật sinh học và ứng dụng chúng vào sản xuất đã tạo ra những kết quả tích cực.

Theo thông tin từ tổ chức CropLife Châu Á, trên toàn cầu, có khoảng 300 hoạt chất và sinh vật trừ sâu sinh học. Ở Bắc Mỹ, tỷ lệ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học đứng đầu. Trong đó, thuốc trừ sâu sinh học chiếm tỷ lệ lớn nhất, trong khi thuốc hoá học có nguồn gốc tự nhiên chiếm 1/3 thị trường thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Trong giai đoạn từ 2005 đến 2025, thị trường thuốc bảo vệ thực vật sinh học đang có mức tăng trưởng bình quân hàng năm ở mức 10%, trong khi tỷ lệ tăng trưởng của thuốc hoá học đang giảm 3% mỗi năm.

Để thực hiện cụ thể các chính sách về thuốc bảo vệ thực vật sinh học tại Việt Nam, Cục Bảo vệ thực vật đã phát triển và triển khai chương trình “Phát triển sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học giai đoạn 2021 – 2025”.

Thông tin chi tiết về kết quả triển khai chương trình, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật Huỳnh Tấn Đạt đã cho biết rằng, cả nước hiện đã có 99 cơ sở sản xuất thuốc bảo vệ thực vật đủ điều kiện, trong đó có 85 cơ sở sản xuất thuốc bảo vệ thực vật sinh học.

Cho đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã sản xuất gần 30 dạng thuốc bảo vệ thực vật sinh học thành phẩm khác nhau, bao gồm nhiều dạng tiên tiến và an toàn như dạng hạt phân tán trong nước, dầu phân tán, đậm đặc tan trong nước, và dạng hạt. Ngoài ra, các công nghệ sản xuất thuốc bảo vệ thực vật sinh học phổ biến trên toàn cầu cũng đã được đăng ký, sản xuất và áp dụng tại Việt Nam, bao gồm sản xuất thuốc sinh học nano, thuốc sinh học chiết xuất từ thảo mộc, thuốc sinh học chứa các vi sinh vật, và thuốc có nguồn gốc từ virus hoặc tuyến trùng.

Lượng thuốc bảo vệ thực vật sinh học nhập khẩu đã có sự tăng dần trong những năm gần đây. Năm 2020, nước ta đã nhập khẩu 21,9 nghìn tấn thuốc bảo vệ thực vật, trị giá 89,4 triệu USD. Trong năm 2021, lượng nhập khẩu đã tăng lên 28,2 nghìn tấn, trị giá 113,8 triệu USD. Năm 2022, lượng nhập khẩu là 25,2 nghìn tấn, trị giá 111,2 triệu USD. Trong 9 tháng đầu năm nay, nước ta đã nhập khẩu 13,5 nghìn tấn thuốc bảo vệ thực vật, trị giá 50,5 triệu USD.

Trong 3 năm gần đây, tổng lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng trung bình cả nước đang có xu hướng giảm dần qua từng năm, giảm từ 3,81kg/ha vào năm 2020 xuống còn 3,19 kg/ha vào năm 2022. Tuy nhiên, lượng thuốc bảo vệ thực vật sinh học vẫn duy trì ổn định và có xu hướng tăng từ 16,67% vào năm 2020 lên 18,49% vào năm 2022.

Toan-canh-hoi-nghi
Toan-canh-hoi-nghi

Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu tích cực, song việc sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học hiện nay vẫn đối diện với một số hạn chế. Hội nghị nhận thấy rằng, ngành nông nghiệp chưa có những chính sách cụ thể để thúc đẩy nghiên cứu, hỗ trợ vốn và đầu tư cho phát triển sản xuất, kinh doanh và hoạt động xoay quanh thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Sự phụ thuộc lớn vào các đối tác nước ngoài về bản quyền, nguyên liệu và công nghệ cũng đưa đến tình trạng thị trường không ổn định.

Hầu hết các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học hiện có trên thị trường Việt Nam đều được nhập khẩu từ nước ngoài. Các thủ tục đăng ký sản xuất và thử nghiệm thuốc cũng gặp phải nhiều khó khăn. Hệ thống trang thiết bị và phòng thí nghiệm nghiên cứu, kiểm tra chất lượng về thuốc bảo vệ thực vật sinh học cũng chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tế.

Trong phát biểu, ông Huỳnh Tất Đạt, đại diện từ Cục Bảo vệ thực vật, cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký, kiểm tra và thuốc bảo vệ thực vật sinh học được đưa vào danh mục thuốc được phép ứng dụng tại Việt Nam. Ông cũng cam kết hỗ trợ nhập khẩu, nghiên cứu và thử nghiệm các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học như vi sinh vật và thảo mộc, cùng việc xây dựng quy trình và hướng dẫn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học cho các loại cây trồng có giá trị kinh tế và tiềm năng xuất khẩu.

Cùng với đó, việc phối hợp với các địa phương, Hội, Hiệp hội, doanh nghiệp để thiết lập các mô hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học cũng sẽ tiếp tục. Đặc biệt, sự ưu tiên sẽ được đặt cho việc lựa chọn cây trồng chủ lực, có giá trị kinh tế cao, có tiềm năng xuất khẩu; vùng có nguy cơ mất an toàn do sử dụng thuốc hóa học; cũng như vùng sản xuất hữu cơ và chuyên canh.

Để thực hiện hiệu quả Chương trình hướng tới thúc đẩy sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học trong giai đoạn từ 2021 đến 2025, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật Huỳnh Tấn Đạt đã đề xuất các bộ, ngành bổ sung và ưu tiên các chính sách nhằm khuyến khích phát triển sản xuất và hỗ trợ nông dân trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Đồng thời, việc rà soát và cắt giảm các quy định, điều kiện liên quan đến quản lý thuốc bảo vệ thực vật sinh học cũng được đề xuất. Hơn nữa, đề xuất miễn giảm phí, thuế nhập khẩu, sản xuất và kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Các địa phương cũng cần ban hành chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển sản xuất, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học, đặc biệt là khuyến khích sử dụng thuốc sinh học trong quy mô nông hộ trên địa bàn.

Đối với Cục Bảo vệ thực vật, cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký, khảo nghiệm và đưa thuốc bảo vệ thực vật sinh học vào danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép dùng trong nông nghiệp tại Việt Nam Hỗ trợ nhập khẩu, nghiên cứu và thử nghiệm các thuốc bảo vệ thực vật sinh học nhóm vi sinh, thảo mộc cũng là cam kết của cơ quan này. Đồng thời, việc xây dựng quy trình và hướng dẫn sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học cho các loại cây trồng có giá trị kinh tế và tiềm năng xuất khẩu cũng được đề xuất.

Đồng thời, cũng tiếp tục phối hợp với các địa phương, Hội, Hiệp hội, và doanh nghiệp để lựa chọn và triển khai xây dựng các mô hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Trong đó, sự ưu tiên sẽ được đặt cho việc lựa chọn các loại cây trồng chủ lực, có giá trị kinh tế cao và có tiềm năng xuất khẩu; cũng như vùng đất có nguy cơ mất an toàn do sử dụng thuốc hóa học, và vùng sản xuất hữu cơ hoặc chuyên canh.

Kết luận của Hội nghị, Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hoàng Trung nhấn mạnh rằng trong thời gian tới, ngành nông nghiệp sẽ tiến hành rà soát và đề xuất xây dựng các chính sách cụ thể để khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức cũng như cá nhân đầu tư phát triển sản xuất và ứng dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học vào nông nghiệp. Đồng thời, việc đơn giản hóa thủ tục hành chính cũng sẽ được ưu tiên. Hơn nữa, sẽ tăng cường hướng dẫn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học tại các địa phương.

Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp cũng cần mạnh mẽ hơn trong việc sản xuất thuốc bảo vệ thực vật sinh học trong nước; tiếp tục hoàn thiện phương pháp thử kiểm tra thuốc bảo vệ thực vật sinh học; nghiên cứu đáng tin cậy và thực chất về các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học, nhằm đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người dân, không chỉ dừng lại ở mức thử nghiệm. Hơn nữa, sẽ tăng cường hợp tác quốc tế và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước từ nhiều phần tử kinh tế khác nhau, nhằm phát triển sản xuất thuốc bảo vệ thực vật sinh học tại Việt Nam.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Miền Nam hướng tới vụ Đông Xuân đạt 6,2 triệu tấn thóc năm 2023-2024.

Trong vụ Đông Xuân 2023-2024, khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, và duyên hải Nam Trung Bộ dự kiến gieo trồng lúa trên diện tích 406 nghìn ha. Dự kiến năng suất trung bình là 65,70 tạ/ha, tăng 0,27 tạ/ha so với mùa trước, ước tính sản lượng đạt khoảng 2,67 triệu tấn thóc, tăng 0,27 nghìn tấn so với vụ Đông Xuân 2022-2023.Hoi-nghi-lua-gao

Thông tin từ Hội nghị sơ kết sản xuất trồng trọt vụ Hè Thu và vụ Mùa 2023 cũng như kế hoạch sản xuất vụ Đông Xuân 2023-2024 tại khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ được thông báo tại hội nghị tổ chức tại Quảng Ngãi ngày 31/10, do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) hợp tác với UBND tỉnh Quảng Ngãi tổ chức.

Theo báo cáo của Cục Trồng trọt, diện tích gieo trồng lúa trên vùng đã đạt hơn 1 triệu ha trong năm 2023. Năng suất trung bình đạt 60,24 tạ/ha, tăng 1,33 tạ/ha so với năm trước, với sản lượng ước tính đạt 6,2 triệu tấn thóc, tăng 130 nghìn tấn so với năm 2022.

Vùng này đã chuyển đổi khoảng 19.751 ha đất lúa không hiệu quả sang việc trồng các loại cây khác, như khoai lang Nhật, dưa hấu, thuốc lá, và ngô sinh khối, đem lại hiệu suất kinh tế cao. Lợi nhuận từ việc chuyển đổi này dao động từ 25-220 triệu đồng/ha tuỳ thuộc vào loại cây trồng cụ thể.

Trong lĩnh vực cây công nghiệp và cây ăn quả, khu vực đã duy trì diện tích hiện có, đặc biệt là với các loại cây lớn như cà-phê, hồ tiêu, cao su, và điều, với tăng trưởng sản lượng từ 1-2% so với năm 2022. Các chương trình tái canh cà-phê tại các tỉnh Tây Nguyên đã thể hiện hiệu quả tốt.

Ngoài ra, các tỉnh Tây Nguyên đã phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, đặc biệt là trong lĩnh vực cây ăn trái và cây công nghiệp. Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm đồng đều, chất lượng, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, đặc biệt là tại các thị trường khó tính.

Công tác dự báo và phòng trừ sâu bệnh được thực hiện thường xuyên, đảm bảo cảnh báo kịp thời về tình hình sâu bệnh trên cánh đồng, giúp nông dân chuẩn bị phòng trừ một cách hiệu quả, từ đó giảm thiểu tổn thất do sâu bệnh gây ra.

Đồng thời, việc tăng giá lúa kể từ cuối vụ Hè Thu 2023 đã thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường hợp tác với hộ dân để đảm bảo tiêu thụ và mua lúa, giúp nông dân yên tâm về việc tiêu thụ sản phẩm khi vào mùa thu hoạch. Ngoài việc sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước, hầu hết các địa phương cũng đã tập trung vào việc xuất khẩu, đảm bảo chuẩn bị các điều kiện cần thiết như kiểm tra, thanh tra, và việc cấp phép mã số vùng trồng cùng với việc đóng gói, nhằm đáp ứng yêu cầu về xuất khẩu nông sản.

Tại hội nghị, các đại biểu đã tập trung thảo luận, phân tích và đánh giá các khó khăn, hạn chế cần được giải quyết, đồng thời đưa ra những kinh nghiệm và đề xuất giải pháp để thực hiện kế hoạch sản xuất vụ Đông Xuân 2023-2024 một cách hiệu quả.

Theo kế hoạch, vụ Đông Xuân 2023-2024, khu vực sẽ gieo trồng lúa trên diện tích 406 nghìn ha; mục tiêu năng suất trung bình là 65,70 tạ/ha, với mục tiêu tăng 0,27 tạ/ha. Sản lượng dự kiến đạt 2,67 triệu tấn thóc, tăng 0,27 nghìn tấn so với vụ Đông Xuân 2022-2023.

Để đạt được mục tiêu trên, Cục Trồng trọt đã đề xuất một số khuyến nghị cụ thể cho từng vùng, bao gồm việc lên lịch trồng theo mùa, sử dụng giống cây tiên tiến, và áp dụng kỹ thuật canh tác hiện đại. Đồng thời, việc quản lý tài nguyên nước cũng được nhấn mạnh, bao gồm việc sử dụng nước một cách tiết kiệm và hiệu quả. Các vùng gặp nguy cơ hạn hán cần thay đổi lịch trình sản xuất, và áp dụng kỹ thuật canh tác phù hợp để giảm thiểu tác động của hạn hán và mặn đến sản lượng lúa.

Đối với cây màu và cây công nghiệp có chu kỳ ngắn, việc cơ cấu cây trồng cần được thực hiện một cách hợp lý, tận dụng ưu thế cạnh tranh của từng vùng sinh thái. Sử dụng giống cây phù hợp với thị trường, có khả năng chống chịu và đầu tư vào canh tác hiệu quả để tăng năng suất.

Đối với cây công nghiệp có chu kỳ dài và cây ăn quả, việc tăng cường chỉ đạo sản xuất, đầu tư và chăm sóc cây trồng, cùng với việc mở rộng diện tích trồng mới và tái canh, sẽ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm. Việc tạo liên kết sản xuất và tiêu thụ theo hướng sản xuất hàng loạt cũng cần được tăng cường.

Trong phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Hoàng Trung đề xuất các tỉnh trong khu vực tập trung vào việc chuyển đổi các vùng thiếu nước tưới sang trồng cây cạn ngắn ngày để tăng cường hiệu suất sản xuất và tiết kiệm nước tưới. Ông cũng đề nghị tập trung thực hiện Đề án Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao liên kết với tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Việc theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết và lượng nước sẽ giúp đảm bảo sự bảo vệ sản xuất và giảm thiểu thiệt hại. Ông cũng nhấn mạnh về việc xây dựng kế hoạch phòng chống hạn và xâm nhập mặn, cũng như ứng phó kịp thời khi gặp tình huống hạn, mặn và thiếu nước tưới trong mùa khô.

Thứ trưởng Hoàng Trung cũng khuyến khích các địa phương tập trung vào việc tăng giá trị trên mỗi đơn vị diện tích gieo trồng, đồng thời tập trung vào việc giảm chi phí đầu vào và mở rộng việc cấp phép mã số vùng trồng, cũng như số lượng cơ sở đóng gói. Việc này được coi là một bước tiến quan trọng để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và thúc đẩy sự bền vững của ngành.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Giá sầu riêng Musang King Việt Nam chạm mức thấp kỷ lục.

Theo báo cáo của các phương tiện truyền thông Việt Nam, giá sầu riêng Musang King gần đây đã giảm mạnh tới 70% so với năm ngoái, chủ yếu do chất lượng giảm sút. Giá hiện tại của loại sầu riêng này là 80.000 đồng mỗi kilogram, đánh dấu mức thấp lịch sử.

Một nông dân tại tỉnh Đắk Lắk, thuộc khu vực Tây Nguyên, cho biết giá Musang King hiện tại đã giảm dưới mức giá của sầu riêng Monthong chất lượng cao. Sầu riêng Musang King từ Việt Nam trong những năm gần đây rất được săn đón, đạt giá 250.000-300.000 đồng mỗi kilogram khi bán buôn. Trong khi đó, giá bán lẻ thường vượt quá 500.000-700.000 đồng mỗi kilogram. Tuy nhiên, năm nay, sự giảm sút quan tâm từ các thương lái đã khiến giá giảm xuống chỉ còn 100.000 đồng mỗi kilogram.

Sản lượng sầu riêng Monthong phụ thuộc vào tuổi của cây, với mức sản xuất trung bình từ 10-20 tấn mỗi hecta. Trái lại, cây sầu riêng Musang King chỉ cho một nửa số lượng đó, với trái hiếm khi vượt quá 1,5 kilogram, làm cho chúng khó bán với giá cao.

Để phản ứng mạnh mẽ với tình hình thị trường này, một nông dân từ tỉnh Tiền Giang miền Nam được cho là đã chặt hạ 200 cây sầu riêng Musang King đã trồng được sáu năm, gây ra tổng số lỗ hỏng 6 tỷ đồng (244.000 đô la Mỹ). Theo nông dân, việc trồng sầu riêng Musang King ít phù hợp với điều kiện địa phương, dẫn đến sản lượng thấp và chất lượng trái không tốt. Năm nay, sầu riêng Musang King của nông dân này chỉ bán được với giá 80.000 đồng mỗi kilogram.

Trồng sầu riêng tại Việt Nam tập trung chủ yếu ở khu vực miền Nam và Tây Nguyên. Thú vị là giá sầu riêng Kanyao đã tăng từ cuối tháng Mười. Vào ngày 22 tháng Mười, sầu riêng Kanyao loại Ri6 được bán với giá từ 83.000-93.000 đồng ($3,38-3,78) mỗi kilogram, trong khi sầu riêng Kanyao thông thường có giá từ 75.000-80.000 đồng ($3,05-3,25) mỗi kilogram. Giá mua sầu riêng Monthong chọn lọc đạt từ 87.000-93.000 đồng ($3,54-3,78) mỗi kilogram, trong khi sầu riêng Monthong thông thường được bán với giá từ 76.000-82.000 đồng ($3,09-3,34) mỗi kilogram.

Các chuyên gia trong ngành cho biết rằng sầu riêng Musang King được trồng tại Việt Nam có chất lượng thấp hơn so với đối thủ Malaysia, làm cho việc đề xuất giá cao trở nên khó khăn. Đặng Mạnh Khuông, một thương gia tại thành phố Cần Thơ miền Nam, nhấn mạnh rằng giá sầu riêng Musang King đã trải qua một sự giảm mạnh mặc dù cung ứng đã giảm. Musang King, một lúc được xem là loại sầu riêng tốt nhất thế giới, hiện đang gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các loại khác về cả giá và sản lượng, ít nhất là tại Việt Nam.

Nguồn: Producereport