Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Miền Nam hướng tới vụ Đông Xuân đạt 6,2 triệu tấn thóc năm 2023-2024.

Trong vụ Đông Xuân 2023-2024, khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, và duyên hải Nam Trung Bộ dự kiến gieo trồng lúa trên diện tích 406 nghìn ha. Dự kiến năng suất trung bình là 65,70 tạ/ha, tăng 0,27 tạ/ha so với mùa trước, ước tính sản lượng đạt khoảng 2,67 triệu tấn thóc, tăng 0,27 nghìn tấn so với vụ Đông Xuân 2022-2023.Hoi-nghi-lua-gao

Thông tin từ Hội nghị sơ kết sản xuất trồng trọt vụ Hè Thu và vụ Mùa 2023 cũng như kế hoạch sản xuất vụ Đông Xuân 2023-2024 tại khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ được thông báo tại hội nghị tổ chức tại Quảng Ngãi ngày 31/10, do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) hợp tác với UBND tỉnh Quảng Ngãi tổ chức.

Theo báo cáo của Cục Trồng trọt, diện tích gieo trồng lúa trên vùng đã đạt hơn 1 triệu ha trong năm 2023. Năng suất trung bình đạt 60,24 tạ/ha, tăng 1,33 tạ/ha so với năm trước, với sản lượng ước tính đạt 6,2 triệu tấn thóc, tăng 130 nghìn tấn so với năm 2022.

Vùng này đã chuyển đổi khoảng 19.751 ha đất lúa không hiệu quả sang việc trồng các loại cây khác, như khoai lang Nhật, dưa hấu, thuốc lá, và ngô sinh khối, đem lại hiệu suất kinh tế cao. Lợi nhuận từ việc chuyển đổi này dao động từ 25-220 triệu đồng/ha tuỳ thuộc vào loại cây trồng cụ thể.

Trong lĩnh vực cây công nghiệp và cây ăn quả, khu vực đã duy trì diện tích hiện có, đặc biệt là với các loại cây lớn như cà-phê, hồ tiêu, cao su, và điều, với tăng trưởng sản lượng từ 1-2% so với năm 2022. Các chương trình tái canh cà-phê tại các tỉnh Tây Nguyên đã thể hiện hiệu quả tốt.

Ngoài ra, các tỉnh Tây Nguyên đã phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, đặc biệt là trong lĩnh vực cây ăn trái và cây công nghiệp. Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm đồng đều, chất lượng, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, đặc biệt là tại các thị trường khó tính.

Công tác dự báo và phòng trừ sâu bệnh được thực hiện thường xuyên, đảm bảo cảnh báo kịp thời về tình hình sâu bệnh trên cánh đồng, giúp nông dân chuẩn bị phòng trừ một cách hiệu quả, từ đó giảm thiểu tổn thất do sâu bệnh gây ra.

Đồng thời, việc tăng giá lúa kể từ cuối vụ Hè Thu 2023 đã thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường hợp tác với hộ dân để đảm bảo tiêu thụ và mua lúa, giúp nông dân yên tâm về việc tiêu thụ sản phẩm khi vào mùa thu hoạch. Ngoài việc sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước, hầu hết các địa phương cũng đã tập trung vào việc xuất khẩu, đảm bảo chuẩn bị các điều kiện cần thiết như kiểm tra, thanh tra, và việc cấp phép mã số vùng trồng cùng với việc đóng gói, nhằm đáp ứng yêu cầu về xuất khẩu nông sản.

Tại hội nghị, các đại biểu đã tập trung thảo luận, phân tích và đánh giá các khó khăn, hạn chế cần được giải quyết, đồng thời đưa ra những kinh nghiệm và đề xuất giải pháp để thực hiện kế hoạch sản xuất vụ Đông Xuân 2023-2024 một cách hiệu quả.

Theo kế hoạch, vụ Đông Xuân 2023-2024, khu vực sẽ gieo trồng lúa trên diện tích 406 nghìn ha; mục tiêu năng suất trung bình là 65,70 tạ/ha, với mục tiêu tăng 0,27 tạ/ha. Sản lượng dự kiến đạt 2,67 triệu tấn thóc, tăng 0,27 nghìn tấn so với vụ Đông Xuân 2022-2023.

Để đạt được mục tiêu trên, Cục Trồng trọt đã đề xuất một số khuyến nghị cụ thể cho từng vùng, bao gồm việc lên lịch trồng theo mùa, sử dụng giống cây tiên tiến, và áp dụng kỹ thuật canh tác hiện đại. Đồng thời, việc quản lý tài nguyên nước cũng được nhấn mạnh, bao gồm việc sử dụng nước một cách tiết kiệm và hiệu quả. Các vùng gặp nguy cơ hạn hán cần thay đổi lịch trình sản xuất, và áp dụng kỹ thuật canh tác phù hợp để giảm thiểu tác động của hạn hán và mặn đến sản lượng lúa.

Đối với cây màu và cây công nghiệp có chu kỳ ngắn, việc cơ cấu cây trồng cần được thực hiện một cách hợp lý, tận dụng ưu thế cạnh tranh của từng vùng sinh thái. Sử dụng giống cây phù hợp với thị trường, có khả năng chống chịu và đầu tư vào canh tác hiệu quả để tăng năng suất.

Đối với cây công nghiệp có chu kỳ dài và cây ăn quả, việc tăng cường chỉ đạo sản xuất, đầu tư và chăm sóc cây trồng, cùng với việc mở rộng diện tích trồng mới và tái canh, sẽ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm. Việc tạo liên kết sản xuất và tiêu thụ theo hướng sản xuất hàng loạt cũng cần được tăng cường.

Trong phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Hoàng Trung đề xuất các tỉnh trong khu vực tập trung vào việc chuyển đổi các vùng thiếu nước tưới sang trồng cây cạn ngắn ngày để tăng cường hiệu suất sản xuất và tiết kiệm nước tưới. Ông cũng đề nghị tập trung thực hiện Đề án Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao liên kết với tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Việc theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết và lượng nước sẽ giúp đảm bảo sự bảo vệ sản xuất và giảm thiểu thiệt hại. Ông cũng nhấn mạnh về việc xây dựng kế hoạch phòng chống hạn và xâm nhập mặn, cũng như ứng phó kịp thời khi gặp tình huống hạn, mặn và thiếu nước tưới trong mùa khô.

Thứ trưởng Hoàng Trung cũng khuyến khích các địa phương tập trung vào việc tăng giá trị trên mỗi đơn vị diện tích gieo trồng, đồng thời tập trung vào việc giảm chi phí đầu vào và mở rộng việc cấp phép mã số vùng trồng, cũng như số lượng cơ sở đóng gói. Việc này được coi là một bước tiến quan trọng để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và thúc đẩy sự bền vững của ngành.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Giá sầu riêng Musang King Việt Nam chạm mức thấp kỷ lục.

Theo báo cáo của các phương tiện truyền thông Việt Nam, giá sầu riêng Musang King gần đây đã giảm mạnh tới 70% so với năm ngoái, chủ yếu do chất lượng giảm sút. Giá hiện tại của loại sầu riêng này là 80.000 đồng mỗi kilogram, đánh dấu mức thấp lịch sử.

Một nông dân tại tỉnh Đắk Lắk, thuộc khu vực Tây Nguyên, cho biết giá Musang King hiện tại đã giảm dưới mức giá của sầu riêng Monthong chất lượng cao. Sầu riêng Musang King từ Việt Nam trong những năm gần đây rất được săn đón, đạt giá 250.000-300.000 đồng mỗi kilogram khi bán buôn. Trong khi đó, giá bán lẻ thường vượt quá 500.000-700.000 đồng mỗi kilogram. Tuy nhiên, năm nay, sự giảm sút quan tâm từ các thương lái đã khiến giá giảm xuống chỉ còn 100.000 đồng mỗi kilogram.

Sản lượng sầu riêng Monthong phụ thuộc vào tuổi của cây, với mức sản xuất trung bình từ 10-20 tấn mỗi hecta. Trái lại, cây sầu riêng Musang King chỉ cho một nửa số lượng đó, với trái hiếm khi vượt quá 1,5 kilogram, làm cho chúng khó bán với giá cao.

Để phản ứng mạnh mẽ với tình hình thị trường này, một nông dân từ tỉnh Tiền Giang miền Nam được cho là đã chặt hạ 200 cây sầu riêng Musang King đã trồng được sáu năm, gây ra tổng số lỗ hỏng 6 tỷ đồng (244.000 đô la Mỹ). Theo nông dân, việc trồng sầu riêng Musang King ít phù hợp với điều kiện địa phương, dẫn đến sản lượng thấp và chất lượng trái không tốt. Năm nay, sầu riêng Musang King của nông dân này chỉ bán được với giá 80.000 đồng mỗi kilogram.

Trồng sầu riêng tại Việt Nam tập trung chủ yếu ở khu vực miền Nam và Tây Nguyên. Thú vị là giá sầu riêng Kanyao đã tăng từ cuối tháng Mười. Vào ngày 22 tháng Mười, sầu riêng Kanyao loại Ri6 được bán với giá từ 83.000-93.000 đồng ($3,38-3,78) mỗi kilogram, trong khi sầu riêng Kanyao thông thường có giá từ 75.000-80.000 đồng ($3,05-3,25) mỗi kilogram. Giá mua sầu riêng Monthong chọn lọc đạt từ 87.000-93.000 đồng ($3,54-3,78) mỗi kilogram, trong khi sầu riêng Monthong thông thường được bán với giá từ 76.000-82.000 đồng ($3,09-3,34) mỗi kilogram.

Các chuyên gia trong ngành cho biết rằng sầu riêng Musang King được trồng tại Việt Nam có chất lượng thấp hơn so với đối thủ Malaysia, làm cho việc đề xuất giá cao trở nên khó khăn. Đặng Mạnh Khuông, một thương gia tại thành phố Cần Thơ miền Nam, nhấn mạnh rằng giá sầu riêng Musang King đã trải qua một sự giảm mạnh mặc dù cung ứng đã giảm. Musang King, một lúc được xem là loại sầu riêng tốt nhất thế giới, hiện đang gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các loại khác về cả giá và sản lượng, ít nhất là tại Việt Nam.

Nguồn: Producereport

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Việt Nam cảnh báo về tình trạng dư thừa sản lượng sầu riêng trong nước.

Theo báo cáo gần đây của tờ báo trực tuyến VnExpress, diện tích trồng sầu riêng tại Việt Nam đã mở rộng lên đến 131.000 hecta, với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm trung bình là 24,5%, cao nhất trong số các loại cây chính của đất nước. Mặc dù bắt đầu trồng muộn hơn so với các vùng khác, khu vực Tây Nguyên đã vươn lên trở thành khu vực trồng sầu riêng lớn nhất của đất nước với gần 70.000 hecta, tiếp theo là Đồng Bằng Sông Cửu Long, khu vực Đông Nam Bộ và vùng ven biển miền Trung.

Thách thức mở rộng nhanh chóng

Ông Vũ Đức Côn, phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Đắk Lắk thuộc vùng Tây Nguyên, cho biết diện tích trồng sầu riêng của tỉnh hiện đã vượt quá 28.600 hecta và dự kiến sẽ nhanh chóng đạt đến 30.000 hecta trong những năm tới. Sự mở rộng nhanh chóng đáng kể này đã gây ra lo ngại về việc phát triển bền vững của ngành công nghiệp sầu riêng tại Đắk Lắk.

Sự phát triển đáng lo ngại tại Đắk Lắk và Lâm Đồng

Các cơ quan chức năng ở tỉnh kế cận Lâm Đồng cũng đã đưa ra cảnh báo tới các nông dân với cùng lý do. Diện tích trồng sầu riêng của tỉnh này hiện đã đạt khoảng 19.700 hecta, tăng hơn 6.000 hecta so với năm 2021. Dự kiến Lâm Đồng sẽ sản xuất 115.000 tấn sầu riêng trong năm nay và đạt 225.000 tấn mỗi năm vào năm 2027.

mui-sau-rieng

Ở các vùng phía Tây của Việt Nam, nhiều hecta lúa và khu vườn dứa đã được thay thế bằng vườn sầu riêng. Với tất cả sự tăng trưởng nhanh chóng này, chính phủ Việt Nam đã trở nên lo ngại về tình trạng cung cấp sầu riêng có thể quá nhiều. Nguyễn Như Cường, người đứng đầu đơn vị trồng trọt thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đã cảnh báo các nông dân rằng sự mở rộng không kiểm soát và quy mô lớn gần đây có thể dẫn đến các kết quả không thể dự đoán, bao gồm tình trạng cung cấp quá nhiều. Một điểm đáng quan tâm khác là tác động tiềm năng của việc trồng sầu riêng trên đất không phù hợp, có thể làm giảm đáng kể cả năng suất và chất lượng trái cây, gây hại đến uy tín quốc tế của sầu riêng Việt Nam.

Những thách thức trong ngành sầu riêng tại Việt Nam

Hơn nữa, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã nhấn mạnh những thách thức khác trong ngành sầu riêng, bao gồm mối liên kết yếu ớt giữa nông dân và thương nhân, việc xây dựng thương hiệu chưa tối ưu, lao động không đủ trình độ, cơ sở hạ tầng thiếu và cạnh tranh không công bằng.

sau-rieng-tai-vuon

Việt Nam đã đạt được sự cho phép chính thức xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc vào tháng 7 năm 2022. Xuất khẩu nhanh chóng tăng lên, đạt mức 1,5 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm 2023. Đầu tháng 2 năm nay, vào mùa không phải mùa vụ sầu riêng của Việt Nam, giá cửa hàng nông sản tăng lên mức cao kỷ lục từ 150.000 đến 170.000 đồng Việt Nam (6,11-6,92 USD) mỗi kilogram. Hiện nay, tùy thuộc vào loại và chất lượng, giá cửa hàng nông sản của sầu riêng Việt Nam dao động từ 50.000 đến 95.000 đồng (2,04-3,87 USD) mỗi kilogram, vẫn gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái.

Nguồn: Producereport

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Tuần lễ quảng bá ẩm thực Việt Nam với cơ quan ngoại giao quốc tế

Sáng ngày 27/10 tại Hà Nội, Trung tâm Xúc tiến Thương mại Nông nghiệp, Bộ NN&PTNT đã tổ chức lễ khai mạc Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam với các đại sứ quán nước ngoài tại Việt Nam.san-pham-nuoc-mamĐại diện tham dự lễ khai mạc bao gồm Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền El Salvador tại Việt Nam cùng với các đại diện từ các Đại sứ quán và tham tán nước ngoài tại Việt Nam, bao gồm Vương quốc Anh, Nga, Algeria, Pa-na-ma, Be-la-rut, Indonesia và Nam Phi.

Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam với hệ thống cơ quan ngoại giao và tham tán nước ngoài tại Việt Nam đánh dấu một sự kiện quan trọng trong khuôn khổ chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2023. Chương trình tập trung vào các sản phẩm nước mắm và món ăn đặc trưng kết hợp với nước mắm, đặc biệt là mắm truyền thống và các món ẩm thực đặc trưng từ các vùng miền sử dụng nước mắm. Nhiệm vụ của chương trình là quảng bá và tuyên truyền về lịch sử, câu chuyện sản phẩm và quy trình sản xuất của các sản phẩm nước mắm và ẩm thực từ nước mắm Việt Nam, nhằm nâng cao nhận thức về văn hóa và truyền thống đặc biệt của Việt Nam đến khách du lịch trong và ngoài nước. Tuần lễ cũng đóng góp vào việc thúc đẩy thương mại và tạo liên kết trong việc cung cấp và tiêu thụ sản phẩm nước mắm truyền thống và ẩm thực từ nước mắm.

giao-luu-quoc-teVới diện tích trên 1000m2, Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam đã thiết lập nhiều không gian chính để trưng bày và giới thiệu các sản phẩm nước mắm truyền thống cùng gia vị Việt Nam. Sự kiện cũng bao gồm không gian dành riêng để giới thiệu về ẩm thực cùng các món ăn đặc trưng từ các địa phương, liên kết chặt chẽ với sản phẩm nước mắm truyền thống.

Theo Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại nông nghiệp, ông Nguyễn Minh Tiến, trong khuôn khổ của Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam, nhiều hoạt động đã được tổ chức, bao gồm các buổi toạ đàm và giới thiệu về văn hóa nước mắm và ẩm thực Việt Nam với các đại diện ngoại giao và tham tán nước ngoài tại Việt Nam. Sự kiện cũng bao gồm các talkshow hỏi đáp giữa người tiêu dùng và các chuyên gia, doanh nghiệp, và hợp tác xã về chủ đề nước mắm từ xưa đến nay. Ngoài ra, việc truyền tải và bán hàng cũng được thực hiện thông qua việc livestream quảng bá sản phẩm nước mắm và mắm truyền thống trên nền tảng TikTok Shop.

gioi-thieu-ve-truyen-thong

Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã ra đời từ năm 2018 đến nay, đã thúc đẩy tiềm năng của đất đai và sản vật, tận dụng lợi thế so sánh, đặc biệt là giá trị văn hóa của từng vùng miền. Nhiều sản phẩm OCOP đã thành công trong việc truyền tải những câu chuyện sản phẩm mang tính nhân văn của vùng, từng miền, góp phần thúc đẩy hướng đi về phát triển kinh tế và bảo tồn các nghề truyền thống và giá trị văn hóa đặc trưng.

Thông qua các hoạt động này, việc kết hợp quảng bá và kết nối tiêu thụ nông sản của Việt Nam thông qua văn hoá và ẩm thực sẽ tạo ra một hướng điệu quả và để lại ấn tượng mạnh mẽ đối với người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Thúc đẩy đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn tại vùng ĐBSCL

Vào ngày 30/10, tại thành phố Cần Thơ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) đã tổ chức một Hội nghị nhằm thúc đẩy việc đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tại vùng ĐBSCL. Tham dự và chủ trì hội nghị là Thứ trưởng Trần Thanh Nam.

Hoi-nghi

Hội nghị cũng thu hút sự tham gia của đại diện từ các bộ, ban, ngành Trung ương cũng như địa phương tại các tỉnh trong vùng ĐBSCL, cùng với đại diện từ một số tổ chức quốc tế, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp, nhà đầu tư và các chuyên gia chuyên về nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, vùng ĐBSCL có vai trò quan trọng trong kinh tế nông nghiệp của cả nước, đóng góp trên 33% tổng sản phẩm quốc nội của ngành nông nghiệp và 30% GDP của khu vực. ĐBSCL cũng dẫn đầu cả nước về sản lượng lúa gạo, thủy sản và trái cây. Nơi này đóng góp 56% sản lượng lúa gạo (tương đương 24,5 triệu tấn), 98% sản lượng cá tra (1,41 triệu tấn) và 60% sản lượng trái cây cả nước (4,3 triệu tấn), cũng như chiếm 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% lượng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.

Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, vùng ĐBSCL vẫn đối mặt với nhiều thách thức trong việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Cơ sở hạ tầng vẫn chưa đồng bộ, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông, thủy lợi, điện và thông tin liên lạc. Trình độ sản xuất của nông dân vẫn còn thấp, và năng suất lao động vẫn chưa cao. Ngoài ra, cơ chế và chính sách khuyến khích đầu tư cũng chưa được đồng bộ và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

Để giải quyết các khó khăn trên, Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích để thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tại vùng ĐBSCL. Nhờ những chính sách này, vào năm 2023, tổng vốn đầu tư vào nông nghiệp tại ĐBSCL đạt khoảng 100.000 tỉ đồng, tăng 15% so với năm 2022. Một số dự án đầu tư lớn bao gồm một nhà máy chế biến gạo với công suất 100.000 tấn mỗi năm tại tỉnh Long An (vốn đầu tư 1.000 tỉ đồng); dự án trồng và chế biến trái cây áp dụng công nghệ cao tại tỉnh Tiền Giang (vốn đầu tư 500 tỉ đồng); và dự án nuôi thủy sản áp dụng công nghệ cao tại tỉnh Cà Mau (vốn đầu tư 200 tỉ đồng).

Tại hội nghị, các đại biểu đã thảo luận và trình bày về chính sách khuyến khích thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn tại ĐBSCL. Họ cũng đề cập đến thách thức và cơ hội liên quan đến việc thúc đẩy đầu tư vào ngành nuôi trồng thủy sản trong vùng ĐBSCL trong bối cảnh hiện tại, cũng như xu hướng đầu tư theo hướng bền vững vào nông nghiệp tại khu vực này.

Các ý kiến tại hội nghị cho thấy, để thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn tại ĐBSCL, cần tập trung vào việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Đây được xem là yếu tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc sản xuất và kinh doanh. Các cấp, ngành và địa phương cần hợp tác để đầu tư xây dựng và nâng cấp hệ thống giao thông, thủy lợi, điện và thông tin liên lạc, đặc biệt là tại các khu, cụm công nghiệp nông nghiệp và thủy sản. Đồng thời, cần nâng cao trình độ sản xuất của nông dân và ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất. Các địa phương cũng cần tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng và minh bạch để thu hút cả các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.

Trong bài phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Trần Thanh Nam đã đề cập đến một số vấn đề cụ thể mà vùng ĐBSCL cần tập trung nghiên cứu và thực hiện. Ông nhấn mạnh về việc tận dụng tối đa tiềm năng của các sản phẩm nông nghiệp từ cây ăn trái, lúa gạo và thủy sản. Thứ trưởng cũng khuyến khích các tỉnh trong vùng triển khai nhanh đề án Phát triển bền vững trên diện tích 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, kết hợp việc giảm phát thải với tăng trưởng xanh tại ĐBSCL, đặc biệt trong vụ lúa đông xuân năm 2023-2023, với diện tích 180.000 ha. Ông cũng nhấn mạnh về việc các doanh nghiệp trong ngành lúa gạo cần chia sẻ lợi ích với nông dân thông qua việc tăng cường liên kết với họ và các hợp tác xã.

Bên cạnh đó, ông cũng đề xuất việc tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng và lĩnh vực logistics, đặc biệt là tại các khu vực tập trung nguyên liệu lớn. Trong đó, ông đề cập đến việc xây dựng kho mát để phân loại, bảo quản và sơ chế nhằm nâng cao chất lượng và ổn định giá thành, từ đó tăng cường sức cạnh tranh cho nông sản xuất khẩu và nâng cao chuỗi giá trị trong ngành hàng này.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

FAO: Ước Tính Tác Động Thiên Tai Đối Với Nông Nghiệp

Theo báo cáo mới của FAO, ngành trồng trọt và chăn nuôi trên toàn cầu đã mất khoảng 3,8 nghìn tỷ USD trong vòng 30 năm qua do tác động của thiên tai.

bien-doi-khi-hau

Báo cáo gần đây từ Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO) cho biết trong 30 năm qua, sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi trị giá khoảng 3,8 nghìn tỷ USD đã bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Điều này tương đương với khoảng 123 tỷ USD mỗi năm, hay 5% tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp toàn cầu hàng năm (GDP).

Báo cáo này, mang tựa đề “Tác động của Thiên tai đối với Nông nghiệp và An ninh Lương thực,” cung cấp ước tính toàn cầu đầu tiên về tác động của thiên tai đối với sản xuất nông nghiệp, tập trung vào việc canh tác và chăn nuôi. Báo cáo nhấn mạnh rằng con số này có thể cao hơn nếu có hệ thống dữ liệu về tổn thất trong ngành thủy sản, nuôi trồng thủy sản và lâm nghiệp. Do đó, báo cáo đề xuất cần cải thiện dữ liệu và thông tin về tác động của thiên tai đối với tất cả các ngành nông nghiệp để xây dựng các hệ thống dữ liệu có thể hỗ trợ việc ra quyết định và thực hiện các biện pháp hiệu quả.

Theo báo cáo, trong ba thập kỷ qua, thiên tai – được xác định là những rối loạn nghiêm trọng trong hoạt động của một cộng đồng hoặc xã hội – đã gây ra tổn thất cao nhất cho các quốc gia có thu nhập trung bình thấp và thấp, lên đến 15% GDP nông nghiệp. Thiên tai cũng ảnh hưởng đáng kể đến các quốc đảo nhỏ đang phát triển (SIDS), với tổn thất gần 7% GDP nông nghiệp.

Tổn thất theo nhóm sản phẩm trong nông nghiệp

Theo báo cáo, tổn thất liên quan đến các loại sản phẩm nông nghiệp chính đang có xu hướng gia tăng. Cụ thể, trong ba thập kỷ qua, sản lượng ngũ cốc đã bị mất trung bình 69 triệu tấn mỗi năm, tương đương với sản lượng ngũ cốc của Pháp vào năm 2021. Đối với trái cây, rau quả và mía, mức thiệt hại trung bình hàng năm là 40 triệu tấn. Đối với rau quả, tổn thất tương đương với sản lượng rau quả của Nhật Bản và Việt Nam năm 2021.

Ngoài ra, ước tính thiệt hại đối với mặt hàng thịt, sản phẩm sữa và trứng trung bình đạt 16 triệu tấn mỗi năm, tương đương với sản lượng thịt, sữa, trứng của Mexico và Ấn Độ năm 2021.

Sự khác biệt về tác động của khí hậu theo khu vực

Báo cáo FAO đã chỉ ra sự khác biệt rõ rệt trong tác động của thiên tai đối với các khu vực và quốc gia khác nhau. Châu Á, mặc dù chịu tổn thất kinh tế nông nghiệp lớn nhất, nhưng tổn thất này chỉ chiếm 4% của giá trị gia tăng nông nghiệp. Trong khi đó, ở châu Phi, tổn thất tương đối lớn hơn, đạt gần 8% của giá trị gia tăng nông nghiệp. Sự khác biệt này còn tăng cao hơn khi so sánh các vùng khác nhau.

Mặc dù các nước thuộc các nhóm thu nhập khác nhau có mức thiệt hại khác nhau, các nước thu nhập thấp, đặc biệt là các quốc gia đảo quốc nhỏ (SIDS), thường chịu tỷ lệ thiệt hại cao nhất đối với giá trị gia tăng nông nghiệp.

Tác động đồng thời của các yếu tố thảm họa

Báo cáo của FAO nhấn mạnh rằng các sự kiện thiên tai đang trở nên ngày càng phổ biến và nghiêm trọng hơn. Trong vòng 20 năm qua, số lượng sự kiện thiên tai đã tăng từ 100 mỗi năm vào những năm 1970 lên tới khoảng 400 mỗi năm trên toàn thế giới. Điều đáng lo ngại không chỉ là tần suất tăng, mà cường độ và sự phức tạp của các sự kiện thiên tai cũng ngày càng gia tăng. Báo cáo cũng dự đoán rằng tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn trong tương lai, do các thảm họa liên quan đến biến đổi khí hậu dự kiến ​​sẽ làm gia tăng lỗ hổng xã hội và môi trường sống hiện có.

Báo cáo chỉ ra rằng khi các mối nguy hiểm này xuất hiện, chúng có thể gây ra tác động không chỉ trong một lĩnh vực, mà còn lan tỏa qua nhiều hệ thống và lĩnh vực khác nhau. Các yếu tố gây ra rủi ro thiên tai bao gồm biến đổi khí hậu, tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng, sự gia tăng dân số, tình trạng khẩn cấp về sức khỏe do đại dịch gây ra, các hoạt động quản lý đất đai không bền vững, xung đột vũ trang và suy thoái môi trường.

Mức độ mất mát và thiệt hại gây ra bởi các thảm họa này phụ thuộc vào tốc độ và quy mô không gian mà mà chúng xảy ra, cũng như tình trạng sẵn có của các hệ thống và yếu tố dễ bị tổn thương. Trong những tình huống cực đoan, các thảm họa này có thể dẫn đến di dời và di cư của dân cư nông thôn, gây ra tác động tiêu cực đến hệ thống sản xuất nông sản thực phẩm và gây tăng tình trạng mất an ninh lương thực.

Tăng cường khả năng phục hồi của hệ thống nông nghiệp thực phẩm

Những người nông dân, đặc biệt là những hộ sản xuất nhỏ phụ thuộc vào thời tiết, là nhóm dễ bị tổn thương nhất trong hệ thống nông nghiệp thực phẩm và thường phải chịu thiệt hại nặng nề do các thảm họa thiên tai. Để hỗ trợ họ, việc thực hiện các biện pháp thực hành tốt để giảm thiểu rủi ro từ thiên tai ở cấp trang trại có thể giúp họ tránh được thiệt hại và tăng cường khả năng phục hồi. Đầu tư vào các biện pháp thực hành tốt này có thể mang lại hiệu quả cao hơn trung bình 2,2 lần so với các biện pháp trước đây.

Việc can thiệp một cách tích cực và kịp thời để đối phó với các mối nguy hiểm được dự báo được xem là cực kỳ quan trọng để xây dựng khả năng phục hồi bằng cách ngăn chặn và giảm thiểu rủi ro trong lĩnh vực nông nghiệp. Một số ví dụ đã chứng minh rằng việc đầu tư vào các biện pháp phòng chống và ứng phó thảm họa có tỷ lệ lợi ích/chi phí thuận lợi cao. Báo cáo cho thấy, mỗi đô la đầu tư vào các biện pháp phòng ngừa có thể mang lại lợi ích lên tới 7 đô la và giảm thiểu thiệt hại cho các hộ gia đình nông thôn.

Cuối cùng, báo cáo đề xuất ba hướng tiếp cận chính, bao gồm việc cải thiện dữ liệu và thông tin về tác động của thiên tai đối với tất cả các lĩnh vực nông nghiệp; phát triển và tích hợp các phương pháp tiếp cận giảm thiểu rủi ro từ nhiều loại thiên tai vào các chính sách và chương trình ở mọi cấp; và tăng cường đầu tư vào khả năng phục hồi nhằm tối ưu hóa việc giảm thiểu rủi ro từ thiên tai trong nông nghiệp và cải thiện sản xuất nông nghiệp cũng như sinh kế.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Hội nghị Toàn Quốc: Tương Lai Bền Vững Nông Nghiệp và Môi Trường.

Ngày 22/9 vừa qua, tại thủ đô Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) đã tổ chức thành công Hội nghị Khoa học, Công nghệ và Đổi mới Sáng tạo trong lĩnh vực Đào sâu và Bảo vệ thực vật. Sự kiện quan trọng này được chủ trì bởi Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn – ông Phùng Đức Tiến.

Hội nghị này đã thu hút sự tham gia đông đảo của các chuyên gia, nhà nghiên cứu và các bên liên quan trong ngành nông nghiệp và bảo vệ thực vật, tạo nên một diễn đàn quý giá để chia sẻ kiến ​​thức, kinh nghiệm thử nghiệm và thảo luận về những cách nâng cao hiệu suất sản xuất, bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh thực phẩm trong tương lai.anh 1

Tại Hội nghị quan trọng này, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đã chia sẻ những thông tin về đóng góp quan trọng của ngành nông nghiệp Việt Nam đối với nền kinh tế quốc gia. Ông thông báo rằng Việt Nam hiện đang ở trong nhóm nước xuất khẩu nông sản hàng đầu trên thế giới. Năm 2022, tổng giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam đạt mức 53,4 tỷ USD, tăng 9,7% so với năm 2021. Trong số này, các sản phẩm trồng chậm đã đóng góp 22,6 tỷ USD, tăng 2,88%.

Trong 8 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu nông sản tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ, đạt 33,2 tỷ USD, trong đó ngành trồng khoai ghi nhận con số ấn tượng là 16,9 tỷ USD. Điều này chứng tỏ mức độ quan trọng của trồng trọt trong ngành nông nghiệp của Việt Nam, sử dụng từ 42-50% giá trị xuất khẩu của ngành này trong ngành này.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng nhấn mạnh rằng Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội đã có thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với ngành nông nghiệp Việt Nam. Ngành này không chỉ đóng vai trò là trụ đỡ mà còn thực sự trở thành bệ đỡ của nền kinh tế quốc gia, không chỉ ở thời điểm hiện tại mà còn trong tương lai. Điều này có thể hiện thực hóa quan tâm và nhận thức về vai trò quan trọng của nông nghiệp trong công việc đảm bảo an ninh thực phẩm và phát triển kinh tế bền vững của Việt Nam.

anh 2

Đào sâu là ngành quan trọng trong nông nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh xung đột Nga – Ukraine Tạo lương thực thế giới rừng cung ứng. Việt Nam đã xuất khẩu bình đẳng kỷ lục 5,81 triệu tấn trong 8 tháng năm 2023, tăng 21,4%. Sản phẩm này góp phần quan trọng đưa kim ngạch xuất khẩu Bình 8 tháng lên gần 3,16 tỷ USD, tăng hơn 35,7%. Việt Nam có thể thực hiện trách nhiệm đảm bảo an ninh lương thực thế giới thông qua xuất khẩu bình, đóng góp vào ổn định thị trường toàn cầu và đảm bảo nguồn cung ứng.

Sự đóng góp quan trọng của Khoa học, Công nghệ và Đổi mới Sáng tạo (KHCN) không thể bỏ qua thành công của ngành trồng trọt và nông nghiệp Việt Nam. Trong giai đoạn 2020-2023, các nhà khoa học đã nghiên cứu và phát triển 148 giống cây trồng được công nhận và 36 Tiến bộ kỹ thuật được ứng dụng trong sản xuất, giúp tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Hiệu quả sản xuất đã liên tục tăng qua các năm, với giá trị 01 ha đất trồng năm 2022 đạt 104,2 triệu đồng/ha, tăng 0,6% so với năm 2021. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 ( CM 4.0) đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu và KHCN vẫn đóng vai trò then chốt. Theo ước tính, KHCN đã đóng góp trên 35% vào thành công của sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam trong thời gian qua. Điều này đã duy trì tốc độ tăng trưởng biểu tượng của ngành nông nghiệp và lĩnh vực trồng trọt,
Tại Hội nghị, các đại biểu đã tập trung thảo luận về Thành tựu trong lĩnh vực Thâm hụt – Bảo vệ thực vật của Việt Nam trong giai đoạn 2020-2023, bao gồm cả những Thành tựu kế thừa. Họ đã phân tích và đánh giá các công thức trong nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, xác định nguyên nhân và đề xuất hướng nghiên cứu và chuyển giao. Ngoài ra, các đại biểu cũng đưa ra các đề xuất và giải pháp đối với Nhà nước, phủ Chính phủ, cũng như các tổ chức trong và ngoài nước. Các vấn đề xuất bản này tập trung vào việc cải thiện cơ chế chính sách, quản lý, đầu tư, hợp tác và chia sẻ lợi ích từ hoạt động nghiên cứu, thúc đẩy sự phát triển bền vững của lĩnh vực này.

Tại Hội nghị, các đại biểu không chỉ thảo luận về thành vật trong lĩnh vực Chuồn – Bảo vệ thực vật mà còn đưa ra những vấn đề sản xuất quan trọng đối với Nhà nước, phủ Chính, cũng như các tổ chức trong và ngoài nước nước . Các vấn đề xuất bản tập trung vào giải quyết khó khăn và câu hỏi trong quá trình nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Đặc biệt, các đại biểu đã chia sẻ lời khuyên về cơ chế chính sách, quản lý, đầu tư, hợp tác và chia sẻ lợi ích từ hoạt động nghiên cứu, thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành này và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến thăm gian hàng và giới thiệu sản phẩm tại Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS)/Viện KHKT Nông nghiệp miền Nam (IAS).

anh 3

anh 4

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
AGRITECH Công nghệ mới NÔNG NGHIỆP 360 Startup thế giới Tin tức sự kiện

Startup về dế Cricket One đã khép lại vòng gọi vốn Series A và mở cơ sở chế biến dế lớn nhất châu Á.

Startup về dế Cricket One của Việt Nam đã mở một cơ sở chế biến được cho là lớn nhất châu Á và đã hoàn thành vòng gọi vốn series A với mức đầu tư lên đến “7 chữ số”.

Vòng gọi vốn này được dẫn đầu bởi nhà đầu tư đến từ Singapore – Robert Alexander Stone cùng Cub Capital với một văn phòng tại Singapore.

Cơ sở mới này nằm ở Bình Phước, phía bắc Sài Gòn, ban đầu sẽ có công suất 1.000 tấn/năm và ước tính đạt đến 10.000 tấn trong vòng năm năm tới.

Trong khi các doanh nghiệp sản xuất thức ăn bằng côn trùng như Ÿnsect (Mealworm – tạm dịch: sâu meal hay sâu bột) và Innovafeed (Black soldier flies – tạm dịch: ruồi lính đen) chủ yếu tập trung vào thị trường thức ăn cho động vật, và Aspire (dế) chủ yếu nhắm vào ngành công nghiệp thức ăn cho thú cưng Bắc Mỹ, thì Cricket One đang nhắm vào thị trường thực phẩm cho con người và thú cưng bằng bột protein từ dế, thịt dế tái cấu trúc, snack dế và các loại thực phẩm bổ sung.

Mô hình kinh doanh: Chế biến tập trung và nuôi trồng phân tán

Cricket One – do anh Nam Đặng cùng chị Bicky Nguyễn thành lập vào năm 2016 và bắt đầu sản xuất thương mại vào cuối năm 2017 – đã bắt đầu bằng việc chế biến dế nuôi bởi các nông hộ địa phương trong các container vận chuyển bỏ hoang. Tuy nhiên, sau đó chúng tôi đã thay đổi một chút – Đồng sáng lập Nam Đặng nói với AgFunderNews.

Dế sẽ được nuôi tại các khu vực lân cận nhà máy và sau đó được chuyển đến nhà máy để tiến hành quá trình chế biến. Thay vì nuôi dế trong những container, chúng tôi đã thử một phương pháp mới.

“Nông dân xây dựng những chuồng trại nuôi dế dưới sự hướng dẫn và theo quy chuẩn của Cricket One. Bên cạnh đó, chúng tôi cung cấp cho họ thiết bị và kiến thức nuôi dế. Nông dân quản lý các trang trại dưới sự giám sát của chúng tôi, tuân thủ quy trình của chúng tôi, nuôi dế từ nguồn trứng và sử dụng thức ăn mà chúng tôi cung cấp. Họ sẽ bán dế cho chúng tôi, đảm bảo rằng sự hợp tác sẽ mang lại lợi ích cho cả 2 bên. Hiện nay, khoảng 45% sản phẩm của Cricket One đến từ các trang trại của những hộ nông dân này.”

Cricket One, theo Nam Đặng, cũng tự nuôi một phần của dế của riêng mình. Tuy nhiên, việc chế biến sẽ được diễn ra tập trung tại một nhà máy được chứng nhận đầy đủ.

“Mô hình nuôi trồng phân tán này cho phép chúng tôi tăng khả năng chứa gấp đôi gần như tức thì. Tuy nhiên, nhà máy chế biến sẽ trở thành điểm hạn chế do thời gian cần thiết cho việc xây dựng, mua sắm máy móc và chứng nhận”, Nam Đặng nói. “Nhưng với sự mở rộng của nhà máy hiện tại, chúng tôi có đủ không gian để mở rộng trong vài năm tới.”

Tối ưu hóa thức ăn
Vậy Cricket One cho dế của họ ăn gì?

Công thức này đang được liên tục hoàn thiện và tối ưu hóa, vì “Dế là những gì chúng ăn”, anh Nam giải thích. “Chúng tôi đã làm việc cùng với Học viện Nông nghiệp Việt Nam để nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng của dế và đã phát triển hơn 60 công thức thức ăn cho dế dựa trên sản phẩm phụ phổ biến [từ chất thải nông nghiệp được tái chế] như lá và cám.

“Thức ăn cho dế được sản xuất dưới dạng bột mịn và sau đó được sản xuất OEM tại một nhà máy thức ăn lớn tại Việt Nam. Chúng tôi đang xử lý hàng trăm tấn thức ăn hàng tháng.”

“Chi phí chủ yếu trong chuỗi cung ứng dế bao gồm chi phí thức ăn đứng đầu, tiếp theo là chi phí năng lượng (chủ yếu cho việc chế biến dế) và chi phí lao động. Khi tối ưu được chi phí thức ăn, chúng tôi có thể cải thiện biên lợi nhuận của mình một cách đáng kể.”

Cricket powder

Tự động hóa và quy mô
Tự động hóa và quy mô là yếu tố quan trọng để đạt được hiệu quả kinh doanh trong sản xuất thực phẩm về dế, anh Nam cho biết. “Khi áp dụng công nghệ, việc thu hoạch một thùng nuôi có diện tích 1 mét vuông giảm từ 10 phút xuống chỉ còn 20 giây.”

Nhưng điều đó không có nghĩa phải áp dụng những công nghệ tối tân, anh Nam nói. “Chúng tôi ưa chuộng những giải pháp đơn giản, chi phí thấp nhưng vẫn hiệu quả và mang lại lợi nhuận cao hơn từ đầu tư. Chúng tôi tiến hành tự động hóa việc nuôi trồng dế. Tuy nhiên, cốt lõi của toàn bộ mô hình chính là những người nông dân – công nghệ chỉ để hỗ trợ con người, làm cho công việc trở nên dễ dàng hơn và hiệu quả hơn.

“Tại trang trại của chúng tôi, việc cung cấp thức ăn và nước cho dế đã được tự động hóa. Việc thu hoạch dế, thì thường sẽ do nông dân đảm nhiệm, cũng đang trong giai đoạn được cơ giới hóa.”

Chi phí lao động: ‘Dây chuyền sản xuất 1.000 tấn mỗi năm chỉ cần 5 nhân công’
Về chi phí lao động, anh Nam nói, “Nơi chế biến dế là một hệ thống khép kín. Khi dế được thu hoạch và vận chuyển đến nhà máy, chúng sẽ trải qua quá trình liên tục từ làm sạch, khử nước, khử mỡ, nghiền và ép đùn. Dây chuyền sản xuất 1.000 tấn mỗi năm chỉ cần 5 công nhân.

“Khi hoàn thành công suất tối đa, dự kiến trong vòng 5 năm tới, chúng tôi sẽ chế biến khoảng 10.000 tấn hàng năm..”

So sánh với Aspire – đã xây dựng gần đây nhà máy chế biến dế lớn nhất thế giới tại Canada, đang hướng tới đạt 50-60% công suất vào cuối năm nay tại một nhà máy có công suất hàng năm là 12.000 tấn dế đông lạnh.

Thức ăn cho con người, thức ăn cho thú cưng, thức ăn cho động vật: Nhu cầu về sản phẩm từ dế đến từ đâu?
Khi được hỏi về nhu cầu về sản phẩm từ dế, anh Nam nói rằng Cricket One đang nhìn thấy nhu cầu từ thức ăn cho con người, thức ăn cho thú cưng và thức ăn cho động vật (chủ yếu là thủy sản), và hiện nay đã và đang hợp tác với 15 nhà phân phối trên toàn cầu tại 20 thị trường.

“Ở EU, Cricket One hiện là nhà sản xuất duy nhất ngoài khu vực được ủy quyền để bán bột protein từ dế,” anh Nam nhấn mạnh. “Chúng tôi nhận thấy sự phát triển đáng kể trong tất cả ba lĩnh vực thị trường, đặc biệt là từ phía các tập đoàn lớn.”

Ngành công nghiệp thực phẩm từ côn trùng cho con người đang thu hút sự chú ý đặc biệt tại Việt Nam, Thái Lan và Campuchia, nơi “hơn 70% dân số chấp nhận cho việc tiêu thụ dế”, anh Nam nói. “Tuy nhiên, châu Á đang bị chậm lại so với châu u về đổi mới sản phẩm. Hầu hết các thực phẩm côn trùng tiêu thụ ở châu Á đang ở dạng nguyên con.”

Tuy nhiên, bột từ dế hiện đang được ứng dụng thành dạng snack thị trường châu Á, anh ta nói. “Mục tiêu chính là thay thế một phần của tôm bằng dế trong các sản phẩm Snack với sự tiết kiệm và bền vững, đồng thời cung cấp cùng một lượng dinh dưỡng.”

Cũng có rào cản văn hóa đối với việc tiêu thụ thực phẩm côn trùng ở châu u vì họ không truyền thống ăn côn trùng, anh Nam nói. “Tuy nhiên, châu u có một mức độ đổi mới sản phẩm đáng kinh ngạc, đa dạng sản phẩm và giáo dục thị trường. Nhiều Startup, doanh nghiệp vừa và nhỏ đang dẫn đầu thị trường và thậm chí, các nhà bán lẻ lớn ở Đức, Pháp, Ý và Cộng hòa Séc cũng rất muốn sẽ sớm được cung cấp các sản phẩm dựa trên côn trùng.”

‘Tiếp tục bán bột từ dế không thể kích thích sự tăng trưởng’
Tuy nhiên, anh Nam lập luận rằng “Sự tăng trưởng tỷ lệ thuận trực tiếp với đổi mới sản phẩm và nỗ lực giáo dục thị trường”.

“Chỉ việc bán bột từ dế sẽ không thể kích thích sự tăng trưởng. Các nhà sản xuất như chúng tôi đang mở rộng bằng cách cung cấp các loại Snack từ dế như thương hiệu Rec Rec của chúng tôi ở Việt Nam. Ngoài ra, chúng tôi cung cấp các sản phẩm như bánh tráng, các loại Snack để tối ưu việc ra mắt sản phẩm các sản phẩm tiện lợi và dễ dàng cho khách hàng sử dụng hơn.”

Khi nói về thức ăn cho thú cưng và động vật, anh Nam nói, “Hai phân khúc này có triển vọng và tỷ lệ tiêu thụ cao. Tuy nhiên, họ đòi hỏi những phương pháp khoa học cần nghiên cứu sâu hơn cùng nhiều khía cạnh khác, trong khi giá cả phải hợp lý. Phân khúc này chỉ khả thi cho các công ty có khả năng tối ưu hóa chi phí của họ.”

Snack: Rec Rec
Rec Rec – sản phẩm snack đầu tiên của Cricket One – đã ra mắt vào tháng 2, anh Nam cho biết. “Các sản phẩm đầu tiên dưới nhãn hiệu Rec Rec là dế nguyên con được trộn với gia vị, có sẵn tại gần 200 cửa hàng bán lẻ và được xếp vào danh sách các loại snack được yêu thích trên các nền tảng thương mại điện tử như Shopee, Lazada và Tiki. Rec Rec cũng được bán kèm bởi các thương hiệu bia hàng đầu và chúng tôi đang mang đến 15.000 sản phẩm này cho người tiêu dùng mỗi tháng.

“Snack dế, có cả phiên bản Ready to Cook và Ready to Eat, sẽ ra mắt vào tháng 10. Với sản phẩm này, chúng tôi đang thách thức thị trường Snack chiếm 200 triệu đô la ở Việt Nam.”

Theo AgFunderNews

 

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Nông nghiệp vẫn là nồng cốt chóng đỡ nền kinh tế

(02/09/2023) Trong 8 tháng gần đây, nông nghiệp đã thể hiện sự mạnh mẽ của mình trong bối cảnh khó khăn về thị trường và biến đổi khí hậu, với sự hỗ trợ của doanh nghiệp và cộng đồng nông dân trên khắp cả nước.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), ngành này đã ghi nhận một thặng dư trong cán cân thương mại lên đến hơn 6,7 tỷ USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Nông nghiệp vẫn duy trì vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đồng thời đảm bảo an ninh lương thực và tăng cường xuất khẩu.

Cụ thể, vùng ĐBSCL đã nhanh chóng mở rộng diện tích canh tác lúa Thu Đông lên 700.000 ha để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Sự tăng giá lúa đã mang lại động lực cho các nông dân để tập trung vào chất lượng sản phẩm.

Nganh nong nghiep tiep tuc dong vai tro quan trong lam tru do cho nen kinh te, dong thoi dam bao dong thoi hai muc tieu chinh: an ninh luong thuc va xuat khau.

Sự ổn định trong nước đã làm cho việc tăng cường xuất khẩu trở nên hiệu quả hơn. Trong 8 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm và thủy sản đã vượt qua con số 33 tỷ USD. Các mặt hàng như rau quả, lúa gạo, hạt điều và sản phẩm chăn nuôi đã thể hiện sự phát triển mạnh mẽ.

Đáng chú ý, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tiếp tục tăng lên mức cao nhất thế giới, đạt khoảng 628 – 643 USD/tấn, trong khi sầu riêng Việt Nam là mặt hàng độc quyền. Điều này sẽ tạo ra đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế.

Trong bối cảnh xung đột chính trị và biến đổi khí hậu toàn cầu, ít quốc gia có khả năng cung ứng đủ lương thực cho nhu cầu nội địa và xuất khẩu như Việt Nam. Do đó, ngoài lợi ích quốc gia, Việt Nam còn đảm nhận trách nhiệm xã hội bằng việc chia sẻ lương thực với các quốc gia khác, trong bối cảnh có hơn 700 triệu người đang phải đối mặt với nạn đói do biến đổi khí hậu.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nông, lâm và thủy sản trong tám tháng đầu năm 2023 được ước tính đạt 59,69 tỷ USD, với kim ngạch xuất khẩu 33,21 tỷ USD và nhập khẩu 26,48 tỷ USD, tạo ra thặng dư 6,72 tỷ USD.

Về xuất khẩu, trong tháng 8 kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 4,36 tỷ USD, giảm 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu nông sản tăng 11,5%( 2,16 tỷ USD), chăn nuôi tăng 24% ( 50 triệu USD), trong khi xuất khẩu thủy sản giảm 24% (750 triệu USD) và lâm sản giảm 21,5% ( 1,19 tỷ USD). Đầu vào sản xuất tăng 13,3% ( 207 triệu USD).

Trong tám tháng đầu năm, mặc dù một số mặt hàng xuất khẩu chính giảm giá trị so với cùng kỳ năm trước, tổng kim ngạch xuất khẩu trong dự tính 33,21 tỷ USD, giảm đi 9,5%. Cụ thể, xuất khẩu thuỷ sản giảm 25,4% (5,68 tỷ USD), lâm sản giảm 25,1% (8,95 tỷ USD), và đầu vào sản xuất giảm 21,9% (1,32 tỷ USD). Tuy nhiên, một số mặt hàng như nông sản đã tăng giá trị xuất khẩu lên 16,9 tỷ USD, tăng 11,5%, trong đó nổi bật là mặt hàng rau quả với 3,45 tỷ USD, tăng 57,5%, gạo với 3,17 tỷ USD, tăng 36,1%, hạt điều với 2,23 tỷ USD, tăng 8,9%, và cà phê với 2,94 tỷ USD, tăng 2,3%. Sản phẩm chăn nuôi cũng tăng 26,1% lên 325 triệu USD.

Nguồn: Vinacas

Chuyên mục
Báo cáo chính sách NÔNG NGHIỆP 360 Nông sản chế biến Thủy hải sản TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Tin tức sự kiện XUẤT NHẬP KHẨU Xuất nhập khẩu

EU Công Bố Quy Định Mới về Dư Lượng Hóa Chất trong Nông Sản và Thực Phẩm

(11/3/2023) EU vừa công bố một loạt quy định mới về dư lượng hóa chất trong nông sản và thực phẩm.

Chủ yếu là các quy định tập trung vào một loạt sản phẩm nông sản và thực phẩm đa dạng, bao gồm rau, củ, quả tươi và đông lạnh,…. Ngoài ra, các sản phẩm thuộc nhóm hạt điều, cà phê, chè, sản phẩm gia vị, ngũ cốc, hạt có dầu, sản phẩm từ động vật trên cạn như thịt, trứng, sữa và mật ong cũng nằm trong phạm vi của các quy định này. Điều này tạo ra một bộ khung chung để kiểm soát dư lượng hóa chất trong các sản phẩm này, nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và sức khỏe của người tiêu dùng.

EU đã thiết lập các mức giới hạn dư lượng (MRL) cho các hoạt chất khác nhau trên các loại sản phẩm khác nhau, bắt đầu từ 0,01 mg/kg. Tuy nhiên, EU cũng đã đưa ra các MRL tùy chỉnh cho một số hoạt chất ở mức 0,05 mg/kg, 0,07 mg/kg và thậm chí 1,5 mg/kg trên một số nhóm sản phẩm như rau, củ, rau gia vị, thịt và các sản phẩm từ nội tạng động vật. Năm 2023, EU đã tập trung vào việc sửa đổi nhiều quy định MRL trong Quy định (EC) số 396/2005. Những thay đổi này sẽ có hiệu lực từ ngày 26/9/2023.

Đồng thời, Ủy ban châu Âu đã ban hành các quy định mới liên quan đến MRL tối đa cho arsenic (Asen) trong một số loại thực phẩm như gạo, các sản phẩm chế biến từ gạo, thực phẩm dinh dưỡng cho trẻ em, nước hoa quả, sản phẩm hoa quả cô đặc và muối. Mức MRL cho Asen dao động từ 0,01 đến 0,15 mg/kg trên các sản phẩm này. Quy định này áp dụng trực tiếp cho tất cả các quốc gia thành viên của EU và có hiệu lực từ ngày 26/3/2023.

Muc dư luong toi da (MRL) đoi voi hoat chat isoxaben, novaluron va tetraconazole
Mức dư lượng tối đa (MRL) đối với hoạt chất isoxaben, novaluron và tetraconazole

Trước đó, Ủy ban châu u đã ban hành Quy định 2023/174 để sửa đổi Quy định 2019/1793 về việc thực hiện tạm thời các biện pháp kiểm soát chính thức và khẩn cấp đối với một số hàng hóa được nhập khẩu vào EU.

Cụ thể, quy định này đã sửa đổi một số mặt hàng từ Việt Nam như sau: mì ăn liền chứa gia vị, bột nêm hoặc nước sốt và quả thanh long sẽ có tần suất kiểm tra thuốc bảo vệ thực vật là 20%. Đậu bắp và ớt chuông thuộc giống capsicum vẫn duy trì tần suất kiểm tra là 50%. Điểm mới trong qui định này là đậu bắp sản xuất tại Việt Nam phải có chứng thư kiểm soát thuốc bảo vệ thực vật do phía Việt Nam cấp. Tuy nhiên, quy định mới cũng gỡ bỏ kiểm soát đối với 4 sản phẩm của Việt Nam là mùi tây, rau mùi, húng quế và bạc hà, không còn bị kiểm soát ở mức 50% khi xuất khẩu vào thị trường EU như trước đây.

Đáng lưu ý, theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Hoàng Thúy, Tham tán thương mại Việt Nam tại Thụy Điển, Nghị viện châu Âu và Hội đồng châu Âu họp định kỳ 6 tháng một lần để xem xét và đánh giá mức độ vi phạm về an toàn thực phẩm và thức ăn chăn nuôi của các quốc gia xuất khẩu vào EU. Sau đó, Ủy ban châu Âu sẽ thông báo về những thay đổi trong quy định về các biện pháp kiểm soát. Có các sản phẩm sẽ được tăng cường kiểm soát và có sản phẩm được loại bỏ khỏi danh sách kiểm soát.

Vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU cần tuân thủ các ngưỡng kiểm soát để tránh vi phạm. Sự vi phạm của chỉ một vài doanh nghiệp có thể ảnh hưởng đến toàn bộ ngành và gây ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác.

Ngoài ra, Ủy ban châu Âu đã ban hành Quy định 2022/741 về kiểm soát mức dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tối đa và đánh giá mức độ tiếp xúc của người tiêu dùng với dư lượng thuốc trừ sâu trên và trong thực phẩm có nguồn gốc động vật. Các quốc gia thành viên sẽ thu thập và phân tích mẫu cho các tổ hợp thuốc trừ sâu được đề cập trong quy định. Các sản phẩm từ nguồn thực vật và động vật, chẳng hạn như cam, táo, chuối, kiwi, bưởi, hành tây, cà rốt, bông cải xanh, cải bắp, đậu, ớt, gạo ngoại vỏ, mỡ gia cầm, sữa bò, và trứng gà, sẽ được lấy mẫu ngẫu nhiên để kiểm tra. Ngoài việc kiểm tra tại cửa khẩu, các sản phẩm này sẽ được kiểm tra ngay cả khi đã đến các siêu thị. Nếu có bất kỳ dấu hiệu vi phạm nào, cơ quan thích hợp sẽ tiếp tục kiểm tra tại các kho hàng nhập khẩu. Bà Thúy đã nêu rõ, “Sản phẩm vi phạm sẽ bị thu hồi và thông tin về vi phạm sẽ được đăng rộng trên các phương tiện truyền thông. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh sản phẩm của Việt Nam tại các thị trường khó tính này, trong bối cảnh xây dựng hình ảnh tại những thị trường này đã rất khó khăn.”

Nguồn:Vinacas