Chuyên mục
Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360

Hồng New Zealand: Chất Lượng, Đánh Bại Thời Tiết.

Mùa hồng New Zealand vừa mới bắt đầu. Sau một loạt các biến cố thời tiết không thuận lợi, bao gồm siêu bão Gabrielle, đã tấn công các vườn hồng ở Đảo Bắc vào đầu năm nay, ngành công nghiệp đang cố gắng cung cấp ước tính mùa vụ chính xác cho năm 2023.

Theo Ian Turk, quản lý nhóm sản phẩm tại Hội đồng Ngành Hồng New Zealand, mặc dù các vườn hồng hầu hết tránh được thiệt hại cơ cấu hoặc lũ lụt, nhưng khối lượng của mùa vụ năm nay đã bị ảnh hưởng. Năm 2023, ngành này dự kiến ​​sẽ xuất khẩu khoảng 1.000 tấn hồng tươi đến các thị trường khác nhau, bao gồm Úc, Đông Nam Á, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Trung Quốc. Trong những năm trước đó, lượng gửi hàng hàng năm của đất nước này trung bình là 1.200 tấn hồng.

“Mặc dù có sự giảm sản xuất này, chất lượng và hương vị của trái cây trong năm nay rất tốt với rất nhiều hồng  to, ngon và đang đợi để đưa vào thị trường,” Turk nói. Theo ông, hồng Fuyu, loại hồng chính được xuất khẩu của New Zealand, được tìm kiếm ở các thị trường nước ngoài vì đặc điểm độc đáo của chúng – mặc dù rất giòn nhưng trông không chín, trái cây rất ngọt và không gây cảm giác “miệng khô”.

Hồng New Zealand đã được chấp nhận chính thức vào thị trường Trung Quốc vào năm 2015, và loạt trái cây đầu tiên được gửi đi hai năm sau sau khi được kiểm tra bởi các quan chức Trung Quốc. Theo Ian Albers, giám đốc điều hành của công ty xuất khẩu First Fresh có trụ sở tại Gisborne, vào thời điểm đó, ngành công nghiệp đang thử nghiệm để tìm hiểu về sở thích của thị trường mới. Khối lượng xuất khẩu sau đó tăng lên 15 tấn vào năm 2018, 19 tấn vào năm 2019 và 45 tấn vào năm 2020, chiếm 1-2% tổng lượng xuất khẩu hồng của đất nước, theo Cơ quan Xuất khẩu Nông nghiệp New Zealand. Các năm tiếp theo đặc trưng bởi sự phức tạp và không chắc chắn về việc tiếp cận thị trường Trung Quốc trong thời kỳ đại dịch. Vào năm ngoái, First Fresh đã quyết định không gửi bất kỳ trái cây hồng nào sang Trung Quốc, trích dẫn các thách thức liên quan đến đại dịch cũng như quy định nghiêm ngặt yêu cầu trái cây phải trải qua xử lý lạnh trong vòng tới 35 ngày trước khi vận chuyển.

Hiện nay, có bốn địa điểm sản xuất và hai nhà điều hành cơ sở đóng gói, lưu trữ lạnh và cơ sở xử lý lạnh đã đăng ký để xuất khẩu hồng sang Trung Quốc, theo Bộ Nông nghiệp chính trị New Zealand. Cơ quan Xuất khẩu Nông nghiệp xem xét Trung Quốc là thị trường mới có tiềm năng. “Khối lượng xuất khẩu vẫn còn nhỏ trong khi ngành công nghiệp làm quen với các yêu cầu của chương trình,” trang web của cơ quan nói, lưu ý rằng dự kiến ​​khối lượng xuất khẩu sẽ tăng ổn định trong những năm tới với sự tham gia của nhiều người xuất khẩu hơn.

Nguồn: Produce Report

Chuyên mục
Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Trái cây Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Xuất khẩu cam quýt của Nam Phi sang Trung Quốc giảm trong mùa này

Theo Neil Wan từ Topsun Fresh, một công ty nhập khẩu cam vào Trung Quốc, xuất khẩu cam của Nam Phi sang châu Âu đã tăng đáng kể cùng với sự tăng giá tương ứng. Tuy nhiên, hiệu suất của quả bưởi Nam Phi trên thị trường Trung Quốc đã không được tốt và giá cả đã giảm xuống dưới mức mong muốn. Các nhà buôn trái cây Trung Quốc sẵn lòng trả giá cao cho cam navel cao cấp, đặc biệt là các loại Witkrans và Cambria. Trong khi đó, giá cam Valencia đã duy trì ổn định ở mức 140-180 nhân dân tệ Trung Quốc (19,42-24,96 đô la Mỹ) cho mỗi hộp, tùy thuộc vào loại và hình dáng. Mặc dù số lượng quả quýt/tắc Nam Phi xuất khẩu sang Trung Quốc trong mùa này tăng 30%, nhưng giá cả đã giảm.

Ngay từ đầu mùa này, Hội Nông sản cam Nam Phi dự đoán lượng xuất khẩu cam cho mùa này sẽ khoảng 142 triệu hộp, giảm 13,9%. Khi mùa tiến triển, lượng xuất khẩu dự kiến đã được điều chỉnh lên 156 triệu hộp do tăng sản lượng cam navel.

Tuy nhiên, xuất khẩu cam của Nam Phi sang Trung Quốc trong mùa này đã giảm 40% so với năm ngoái. Nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm này là nhu cầu mạnh mẽ từ thị trường châu Âu, đã rõ ràng từ đầu mùa. Tổng cộng, xuất khẩu cam Nam Phi sang châu Âu đã tăng khoảng 50%. Tuy nhiên, do mưa lớn ở giai đoạn cuối mùa, nhiều vườn cam đã bị ảnh hưởng bởi bệnh đốm đen. Dự kiến rằng lượng cam trong giai đoạn cuối mùa sẽ được chuyển sang Trung Đông và một số thị trường châu Á.

Về thị trường Trung Quốc, Wan bổ sung rằng điều kiện thời tiết bất lợi gần đây ở miền bắc Trung Quốc đã ảnh hưởng đến việc tiêu dùng. Tuy nhiên, tổng hiệu suất thị trường của cam nhập khẩu đang cho thấy dấu hiệu cải thiện. Người tiêu dùng Trung Quốc tiếp tục thể hiện sự sẵn lòng trả giá cao cho các loại trái cây chất lượng cao hoặc các loại mới lạ, với bao bì đẹp thường tăng cường sức hấp dẫn của chúng.

Nguồn: Produce Report

Chuyên mục
Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Tin tức sự kiện Trái cây Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Nữ hoàng cao cấp Nho Nina tấn công thị trường Trung Quốc

Nho cao cấp Queen Nina được trồng tại tỉnh Vân Nam hiện đã có mặt tại một số siêu thị boutique và thị trường bán sỉ nông sản tại Trung Quốc. Các trái nho Queen Nina mùa đầu tại cửa hàng City’super được sản xuất tại Jiànshuǐ và có giá hơn 100 nhân dân tệ Trung Quốc (13,94 đô la Mỹ) cho một chùm nho 400 gram. Trong khi đó, trên nền tảng trực tuyến Taobao, trái nho này được bán với giá khoảng 200 nhân dân tệ (27,88 đô la Mỹ) cho mỗi kilogram và hơn 80 nhân dân tệ (11,15 đô la Mỹ) cho mỗi kilogram tại thị trường bán sỉ Xinfadi ở Bắc Kinh.

Theo nhân viên của City’super, chuỗi siêu thị này đã bán trái nho Queen Nina từ trước năm 2020. Do sản phẩm này trở nên phổ biến hơn đối với khách hàng, doanh số bán hàng đã từ từ tăng lên, dẫn đến giá có sự sụt giảm. Hiện tại, trái nho Queen Nina chiếm khoảng 1% tổng doanh số bán hàng của chuỗi siêu thị thực phẩm cao cấp này.

Queen Nina là một giống nho bàn cao cấp lai tetraploid được phát triển ban đầu tại Nhật Bản. Trái nho này có kích thước lớn và màu đỏ tươi, với hàm lượng đường cao và độ axit thấp. Nghiên cứu và phát triển về giống Queen Nina, một sự kết hợp giữa Akitsu-20 và Aki Queen, đã bắt đầu tại thị trấn Akitsu vào năm 1992. Vào năm 2011, sau hơn 10 năm chăm sóc, nó đã được đăng ký chính thức theo Luật Bảo vệ và Giống cây trồng của Nhật Bản dưới mã số giống 20733.

Các chùm trái nho Queen Nina có trọng lượng khoảng 500-700 gram, với mỗi trái nho nặng 15-20 gram. Với việc tẩy trái cây cẩn thận và sử dụng axit gibberellic trong quá trình trồng trọt, có thể thu được trái nho không hạt nặng hơn 17 gram. Trái nho có hàm lượng chất rắn tan trong nước là 20-21%, độ axit là 0,4 gram cho mỗi 100 milliliters và hàm lượng đường rất cao lên đến 20%. Hàm lượng chất rắn tan này cao hơn đáng kể so với giống nho Kyoho và Pione, trong khi độ axit thấp hơn nhiều. Trái nho có vỏ mỏng và thịt ngọt với mùi rượu thơm ngon. Trái nho Queen Nina thường chín vào cuối tháng Tám và đầu tháng Chín, trước giống nho Kyoho và một chút muộn hơn giống nho Pione.

Mặc dù giống nho Queen Nina đã được giới thiệu vào Trung Quốc cùng thời điểm với giống Sunshine Rose, nhưng do yêu cầu trồng trọt khó khăn và hạn chế về việc nhập khẩu từ Nhật Bản, nó vẫn đang đứng sau. Sự thụ động nhanh chóng của giống Sunshine Rose đã giúp các kỹ thuật viên nông nghiệp Trung Quốc tăng tốc quá trình địa phương hóa với giống nho Queen Nina. Theo báo chí, đã có thể giải quyết vấn đề phát triển màu sắc khó khăn thông qua nghiên cứu và tối ưu hóa cẩn thận. Ở các vùng như Shaanxi, Vân Nam và Jiangsu, nơi độ cao tương đối cao, sự chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm lớn, nắng nhiều và lượng mưa thấp trong giai đoạn chín mọng, trồng nho Queen Nina đang tiếp tục mở rộng, nhưng tổng sản lượng vẫn thấp hơn 0,1% so với giống Sunshine Rose.

 

Vẻ đẹp hấp dẫn và hương vị ngọt ngào của trái nho Queen Nina đã khiến chúng trở thành một giống rất phổ biến trên thị trường nho cao cấp và giá thị trường đã duy trì ở mức cao. Theo báo chí địa phương, một nông dân từ Shaanxi cho biết giá địa phương đã đạt 140-160 nhân dân tệ (19,51-22,30 đô la Mỹ) cho mỗi kilogram vào năm 2022 và tổng giá trị của vườn trái cây của ông với diện tích 0,67 hecta trong năm đầu đã vượt qua mốc một triệu nhân dân tệ (139.000 đô la Mỹ).

Nguồn: Produce Report

Chuyên mục
Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Tin tức sự kiện Trái cây Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Indonesia Mời Trung Quốc Đầu Tư vào Lĩnh Vực Sầu Riêng

Theo một bài báo trên Jakarta Globe, tổng thống Trung Quốc, Tập Cận Bình vừa gặp gỡ đồng nghiệp Indonesia là Joko Widodo tại Chengdu. Trong cuộc họp, Tổng thống Widodo đề xuất rằng Trung Quốc nên xem xét đầu tư vào việc trồng cây sầu riêng tại Indonesia.

Bộ trưởng Đầu tư chính của Indonesia, Luhut Binsar Pandjaitan, cho biết chính phủ Indonesia hy vọng Trung Quốc sẽ đầu tư vào việc trồng sầu riêng trên diện tích 5.000 hecta tại nước này. Một số vị trí tiềm năng đã được đề xuất cho dự án này. Theo đề xuất, 70% sản lượng sẽ được chuyển đến thị trường Trung Quốc, trong khi Indonesia sẽ giữ lại 30% còn lại.

Luhut cũng nhấn mạnh rằng số lượng sầu riêng nhập khẩu của Trung Quốc đã tăng vượt quá 4 tỷ USD mỗi năm. Nếu Indonesia có thể chiếm 25-40% thị trường này, giá trị có thể tăng lên đến 1,5 tỷ USD. Ông cũng nhấn mạnh sự quan tâm của cơ quan tư vấn Trung Quốc, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển của Hội đồng Nhà nước, đối với dự án này. Các địa điểm có thể Indonesia cung cấp cho dự án bao gồm Bắc Sumatra và đảo Sulawesi.

Trong những năm gần đây, cả lượng và giá trị sầu riêng nhập khẩu vào Trung Quốc đã tăng nhanh chóng. Các nước Đông Nam Á trồng cây này đã thể hiện sự quan tâm đáng kể đối với thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, nguồn cung cấp sầu riêng của Trung Quốc hiện nay vẫn tương đối hạn chế, khi quốc gia này chỉ cho phép nhập khẩu từ Thái Lan, Việt Nam, Philippines và Malaysia

Sản lượng sầu riêng của Indonesia không thua kém so với Thái Lan, với khoảng 1,35 triệu tấn mét năm 2021, chiếm khoảng một phần ba tổng sản lượng trên toàn cầu. Đáng ngạc nhiên, sản lượng xuất khẩu của nước này vẫn tương đối khiêm tốn, chỉ khoảng 500.000 tấn mét. Việc trồng sầu riêng tại Indonesia chủ yếu tập trung tại các tỉnh như Đông Java, Tây Sumatra, Trung Java, Bắc Sumatra và Tây Java, với năm vùng này cùng chiếm 60% tổng sản lượng sầu riêng của Indonesia.

Đến năm 2022, Trung Quốc đã trở thành nguồn đầu tư lớn thứ hai của Indonesia, với tổng đầu tư trực tiếp là 8,2 tỷ USD, chỉ đứng sau Singapore với 13,3 tỷ USD. Với sự mở rộng nhanh chóng của thị trường sầu riêng Trung Quốc, Indonesia đang tích cực nỗ lực để đảm bảo một vị trí quan trọng trong ngành này.

Nguồn: Produce Report

Chuyên mục
Báo cáo chính sách Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360

Tài Chính 2022/23 Của Zespri Tiết Lộ Thách Thức Trong Trồng Kiwi.

Vào ngày 30 tháng 5, Zespri đã công bố kết quả tài chính cho năm tài chính 2022/23, cho thấy lợi nhuận sau thuế của công ty chỉ đạt 237,8 triệu đô la New Zealand (145,5 triệu đô la Mỹ), đại diện cho một sụp đổ đáng kể so với mức kỷ lục 361,5 triệu đô la New Zealand (221,2 triệu đô la Mỹ) ghi nhận trong năm tài chính 2021/22.

Theo báo cáo tài chính, doanh thu bán trái cây toàn cầu của Zespri đạt 3,92 tỷ đô la New Zealand (2,40 tỷ đô la Mỹ) trong năm 2022/23, tương ứng với sự giảm nhẹ 2,7% so với mức kỷ lục 4,03 tỷ đô la New Zealand (2,47 tỷ đô la Mỹ) đạt được trong năm 2021/22. Trong khi đó, tổng số lượng trái cây bán ra toàn cầu của công ty giảm từ 201,5 triệu khay xuống còn 183,5 triệu khay và doanh thu hoạt động toàn cầu (bao gồm doanh thu từ giấy phép) giảm 5,6% xuống còn 4,22 tỷ đô la New Zealand (2,58 tỷ đô la Mỹ).

Báo cáo tài chính phản ánh những thời kỳ khó khăn mà ngành trồng kiwi toàn cầu đã phải đối mặt. Lợi nhuận của người trồng bị ảnh hưởng tiêu cực bởi các vấn đề về chất lượng trái cây, chủ yếu xuất phát từ tình trạng thiếu lao động nghiêm trọng trong ngành, cùng với các thách thức liên quan đến tăng giá và quản lý chuỗi cung ứng. Chi phí liên quan đến chất lượng mà Zespri phải trả đã tăng lên 534 triệu đô la New Zealand (327 triệu đô la Mỹ) trong năm tài chính 2022/23 so với 307 triệu đô la New Zealand (188 triệu đô la Mỹ) trong năm tài chính 2021/22.

Đối với các nhà cung cấp nước ngoài của Zespri, doanh số bán hàng đã giảm từ 537 triệu đô la New Zealand (329 triệu đô la Mỹ) trong năm tài chính 2021/22 xuống còn 519 triệu đô la New Zealand (318 triệu đô la Mỹ) trong năm 2022/23. Điều này ngụ ý rằng các khu vực sản xuất của Zespri ở nước ngoài đã đối mặt với những thách thức tương tự như tại New Zealand. Trong thời kỳ này, người trồng ở Ý báo cáo đã gặp phải thời tiết nóng nực và phải đối mặt với chi phí chất lượng cao nhất trong vài năm qua.

Dan Mathieson, CEO của công ty, cho biết kết quả này cho thấy giai đoạn vô cùng khó khăn mà nhiều ngành công nghiệp chính đang trải qua, trong đó người trồng phải đối mặt với những thách thức xuất phát từ thiếu lao động, tác động liên tục của COVID-19, điều kiện khí hậu và sự gia tăng chi phí.

Mathieson tiếp tục nhấn mạnh rằng sự giảm sản lượng trái cây kiwi cho mùa 2023/24 đang tạo ra một thách thức khác đối với người trồng, đặc biệt là những người tham gia vào việc trồng kiwi xanh. Tuy nhiên, ông nói rằng Zespri đã sẵn sàng để khôi phục đà tăng trưởng và nâng cao lợi nhuận cho người trồng, ngành công nghiệp trồng kiwi và nền kinh tế của New Zealand tổng thể. Các lô hàng đầu tiên của mùa 2023/24 được báo cáo đã nhận được phản hồi tích cực từ khách hàng, ngụ ý rằng Kế hoạch Hành động về Chất lượng của ngành đã hiệu quả trong việc giảm chi phí chất lượng và đảm bảo chất lượng trái cây xuất khẩu.

Nguồn: Produce Report

Chuyên mục
Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Trái cây Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Giá sầu riêng tại Trung Quốc đang giảm khi nguồn cung tăng

Gần đây, giá sầu riêng loại Monthong (còn được gọi là “gối vàng”) của Thái Lan trên thị trường Trung Quốc đã bắt đầu giảm, trong khi giá sầu riêng loại Kanyao của Việt Nam đã giảm mạnh.

 

Vào ngày 2 tháng 6, tổng cộng có 93 container sầu riêng tồn kho tại Thị trường Jiangnonghui ở Quảng Châu (phần trái cây nhập khẩu của Thị trường Trái cây Sỉ Jiangnan), trong đó có 41 container sầu riêng Monthong của Thái Lan. Giá loại trái cây hạng A dự kiến sẽ giảm xuống dưới 1.000 nhân dân tệ Trung Quốc (140 đô la Mỹ) mỗi hộp trong tương lai gần, trong khi loại trái cây hạng B hiện đang có giá khoảng 770-882 nhân dân tệ Trung Quốc (108-124 đô la Mỹ) mỗi hộp, mỗi hộp chứa từ sáu đến bảy quả sầu riêng. Trong khi đó, các thương nhân tại thị trường đang tồn kho 47 container sầu riêng Kanyao của Việt Nam, giá của chúng vẫn đang giảm. Hộp nhỏ chứa trái cây loại A, mỗi hộp chứa ba quả sầu riêng, hiện đang bán với giá chỉ 250-270 nhân dân tệ Trung Quốc (35-38 đô la Mỹ). Hộp sầu riêng Monthong của Việt Nam, mỗi hộp chứa năm đến sáu quả, đang bán với giá 820-860 nhân dân tệ Trung Quốc (115-121 đô la Mỹ).

 

Giá sầu riêng Monthong trong nước Thái Lan vẫn duy trì ở mức cao, trong khi giá bán lẻ thông thường tại Trung Quốc vẫn vượt quá 80 nhân dân tệ Trung Quốc (11,23 đô la Mỹ) mỗi kilogram. Tuy nhiên, một số thương nhân không trung thực đã được phát hiện cố gắng bán sầu riêng Kanyao của Việt Nam dưới danh nghĩa sầu riêng Monthong của Thái Lan, với giá khoảng 40-60 nhân dân tệ Trung Quốc (5,62-8,42 đô la Mỹ) mỗi kilogram.

 

Sự giảm giá mạnh mẽ của sầu riêng Kanyao của Việt Nam đến khi Việt Nam vào mùa cao điểm của sầu riêng, với nguồn cung đầy đủ từ các tỉnh miền tây của đất nước. So với giữa tháng Ba, giá của nhiều loại sầu riêng đã giảm gần một nửa.

 

Da Huoai, một huyện nông thôn thuộc tỉnh Lâm Đồng ở vùng Tây Nguyên của Việt Nam, có gần 6.000 hecta vườn cây sầu riêng. Sáu vườn sầu riêng có mã số hải quan Trung Quốc, bao gồm diện tích gần 300 hecta với sản lượng hàng năm trên 100.000 tấn mét khối.

 

Giá mua sầu riêng Kanyao chất lượng cao tại Việt Nam là khoảng 70.000-75.000 đồng Việt Nam (2,98-3,19 đô la Mỹ) mỗi kilogram, trong khi trái cây loại thấp hơn bán với giá 50.000-55.000 đồng Việt Nam (2,13-2,34 đô la Mỹ) mỗi kilogram. Trong khi đó, sầu riêng Monthong có giá bán tương đối cao hơn, khoảng 80.000-100.000 đồng Việt Nam (3,41-4,26 đô la Mỹ) mỗi kilogram. Với sầu riêng Monthong đang được nhiều người mua săn đón, có thông tin cho biết nhiều người mua hiện đang đến trực tiếp các vườn cây để yêu cầu mua.

Nguồn: Produce Report

Chuyên mục
Giá cả thị trường Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức Trái cây Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Giá sầu riêng ở Trung Quốc đã giảm vào đầu tháng 7

Theo một báo cáo trên Thaizhonghua.com, dự kiến sản xuất sầu riêng miền nam Thái Lan sẽ đạt 670.000 tấn trong năm nay. Trong tuần thứ hai của tháng 7, giá sầu riêng loại A và loại B tại khu vực dao động từ 130 đến 145 baht Thái ($3,82–4,26) mỗi kilogram, trong khi sầu riêng loại C và loại D được định giá từ 95 đến 105 baht ($2,79–3,08) mỗi kilogram và 90 baht ($2,64) mỗi kilogram, tương ứng.

 

Một viên chức từ Bộ Công thương Thái Lan cho biết triển vọng thị trường cho các loại trái cây Thái Lan là tích cực, với nhu cầu cao từ các người mua nước ngoài dẫn đến nhiều đơn đặt hàng số lượng lớn và làm tăng giá cả cục bộ liên tục. Thậm chí, giá cho sầu riêng chất lượng thấp cũng đã đạt đến 100 baht ($2,94) mỗi kilogram. Tuy nhiên, theo viên chức này, ưu tiên hiện tại là đảm bảo người nông dân tuân thủ các biện pháp kiểm soát chất lượng và không bán trái cây chưa chín hoặc kém chất lượng. Ông nhấn mạnh rằng việc duy trì chất lượng là quan trọng để đảm bảo giá cả thuận lợi.

 

Nhờ vào sự cải thiện đáng kể trong hiệu suất thông quan hải quan kể từ khi đường sắt Trung Quốc-Lào được mở, đã có một sự tăng đáng kể về lượng trái cây được vận chuyển qua tuyến đường này. Trong năm nay, đã có 2.124 container trái cây được vận chuyển thành công, đại diện cho một sự tăng lên đáng kể so với 512 container của năm trước. Vận chuyển bằng đường sắt không chỉ giúp kiểm soát nhiệt độ mà còn giảm thiểu thời gian vận chuyển một cách đáng kể. Dữ liệu chính thức được công bố bởi các cơ quan Thái Lan cho biết từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 25 tháng 5, Thái Lan đã xuất khẩu 477.741 tấn sầu riêng trị giá 62,39 tỷ baht ($1,83 tỷ) vào Trung Quốc, thiết lập một kỷ lục mới.

 

Tuy nhiên, lượng lớn sầu riêng từ miền nam Thái Lan nhập khẩu vào thị trường Trung Quốc đã làm giảm giá sầu riêng tại Trung Quốc một lần nữa, đạt mức thấp mới trong năm vào đầu tháng 7. Theo báo cáo của các phương tiện truyền thông địa phương, thậm chí cả sầu riêng Thai Golden Pillow được săn đón hiện đang bán chỉ với 51,6 nhân dân tệ Trung Quốc ($7,15) mỗi kilogram trên thị trường bán lẻ.

 

Ngoài sự dư thừa hiện tại trên thị trường, chất lượng của sầu riêng có nguồn gốc từ miền nam Thái Lan cũng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định giá cả của chúng tại Trung Quốc. Cụ thể, sầu riêng Golden Pillow từ miền nam Thái Lan được cho là có chất lượng không đồng đều và thấp hơn một chút so với những trái cây từ miền đông Thái Lan, với trái cây chưa chín hoặc chín quá thường xuyên. Điều này đã làm cho giá cả trên thị trường cho sầu riêng Thai Golden Pillow giảm xuống cùng mức với sầu riêng từ Việt Nam.

 

Giá bán lẻ của sầu riêng tại Trung Quốc đã chứng kiến ​​sự biến động đáng kể kể từ đầu năm. Vào tháng 4, giá dao động xung quanh 50 nhân dân tệ ($6,93) mỗi kilogram, sau đó tăng lên 60 nhân dân tệ ($8,32) mỗi kilogram vào đầu tháng 5 và tiếp tục tăng lên 70 nhân dân tệ ($9,70) mỗi kilogram vào cuối tháng 5. Tuy nhiên, giá đã sụt giảm xuống dưới 40 nhân dân tệ ($5,54) mỗi kilogram. Giá thấp vào tháng 4 là do cung cấp dồi dào của sầu riêng từ miền đông Thái Lan. Nhu cầu từ thị trường Trung Quốc sau đó tăng mạnh vào tháng 5 khi cung cấp bắt đầu khan hiếm, làm cho giá tăng. Vào tháng 6, lượng lớn sầu riêng từ Thái Lan và Việt Nam đã nhập khẩu vào Trung Quốc, dẫn đến một lần nữa giá.

Nguồn: Produce Report

Chuyên mục
Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 Trái cây XUẤT NHẬP KHẨU

Sầu Riêng – Mảnh Hàng Đắt Giá Trên Thị Trường Xuất Khẩu Việt Nam

Theo báo chí Việt Nam, xuất khẩu sầu riêng của nước này trong 5 tháng đầu năm 2023 cao hơn gấp 10 lần so với cùng kỳ năm ngoái, đạt tổng giá trị xuất khẩu 526 triệu USD và vượt thanh long để trở thành mặt hàng trái cây xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Một số người trong ngành Việt Nam đã gọi sự tăng trưởng nhanh chóng của sầu riêng là “một phép lạ”.

Xuất khẩu sầu riêng tăng mạnh sau khi Trung Quốc năm ngoái cấp quyền tiếp cận thị trường cho sầu riêng tươi của Việt Nam thông qua các kênh thương mại chính thức. Trong 5 tháng đầu năm nay, Việt Nam xuất khẩu sầu riêng sang hơn 22 quốc gia và khu vực. Tuy nhiên, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất, chiếm 90,68% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Trong khi đó, số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam cho thấy xuất khẩu thanh long giảm 11% so với cùng kỳ năm ngoái, giá trị xuất khẩu chỉ đạt 307 triệu USD. Trên thực tế, xuất khẩu thanh long của nước này đã giảm kể từ năm 2019, do đại dịch COVID-19 và những thách thức về hậu cần là nguyên nhân chính. Năm 2021, xuất khẩu thanh long của Việt Nam đạt 1,031 tỷ USD, trong khi xuất khẩu sầu riêng đạt tổng trị giá dưới 178 triệu USD. Năm 2022, xuất khẩu thanh long và sầu riêng của Việt Nam lần lượt đạt giá trị 633 triệu USD và 420 triệu USD.

Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, kỳ vọng xuất khẩu sầu riêng tươi của Việt Nam sẽ đạt 1,2 tỷ USD vào năm 2023 và vượt 2 tỷ USD trong vòng hai năm tới. Cho đến nay, 293 đồn điền và 115 nhà máy đóng gói ở Việt Nam đã được cấp phép xuất khẩu sầu riêng tươi sang Trung Quốc, cùng với hơn 400 đồn điền và 60 nhà máy đóng gói hiện đang được xem xét.

Theo thống kê từ Tổng cục Hải quan Trung Quốc, Trung Quốc đã nhập khẩu 535.520 tấn sầu riêng tươi trị giá khoảng 2,66 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm 2023. Thái Lan vẫn là nhà cung cấp lớn nhất, chiếm gần 85% giá trị nhập khẩu sầu riêng của Trung Quốc (2,25 tỷ USD) . Mặc dù Việt Nam vẫn đang tụt hậu so với Thái Lan về tổng xuất khẩu sầu riêng nhưng ngành này cho thấy tiềm năng cải thiện rất lớn trong thời gian tới.

Nguồn: Produce Report

Chuyên mục
Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360 TIN NÔNG NGHIỆP Trái cây Xuất nhập khẩu XUẤT NHẬP KHẨU

Xuất khẩu nhãn Thái sang Trung Quốc suy giảm 20%

Theo báo chí Thái Lan, Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã Thái Lan đã quan sát thấy diện tích trồng nhãn giảm nhẹ 1,43% trên 8 tỉnh phía bắc vào năm 2023, với tổng diện tích trồng nhãn giảm nhẹ từ 206.080 xuống 203.680 ha. Mức giảm này là do nông dân thay thế cây nhãn già bằng cây trồng khác như sầu riêng , chôm chôm, cao su, sắn, ngô và cà phê.

 

Tổng sản lượng trên toàn các tỉnh nói trên là 972.330 tấn, bao gồm 641.919 tấn nhãn theo mùa và 330.411 tấn nhãn trái vụ, giảm tổng cộng 5,04% so với năm ngoái. Điều kiện thời tiết bất lợi, đặc trưng bởi nhiệt độ dao động từ tháng 12 đến tháng 1 và lượng mưa không đủ khi cây nhãn bắt đầu ra quả, đã góp phần làm giảm 13,16% sản lượng nhãn theo mùa so với 641.919 tấn được trồng năm ngoái. Nhãn theo mùa có mặt trên thị trường từ tháng 6 đến tháng 9, với sản lượng cao điểm vào tháng 8.

 

Mặt khác, sản lượng nhãn trái vụ đã tăng 16,04% trong năm nay so với mức 284.746 tấn được trồng năm ngoái. Do nhãn có giá tốt hơn trong khoảng thời gian từ tháng 11 đến tháng 12 năm ngoái, nông dân đã sử dụng các kỹ thuật để kích thích đậu quả, dẫn đến sản lượng cao hơn trong thời gian trái vụ.

 

Hiệp hội các nhà sản xuất nhãn khô miền Bắc chỉ ra rằng các cơ sở chế biến hiện đang tích cực thu mua nhãn từ nông dân do nguồn dự trữ đang suy giảm ở Thái Lan và Trung Quốc. Nhu cầu gia tăng này đã đẩy giá nhãn cao cấp lên 30–35 baht Thái (0.86 –1,00 USD) mỗi kg. Các dự báo cho thấy khả năng giá còn tăng hơn nữa, có khả năng đạt mức cao nhất là 38–40 baht ($1,09–1,14) được nhìn thấy lần cuối vào năm 2019.

 

Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu chính của nhãn Thái Lan , chiếm hơn 80% tổng lượng xuất khẩu. Trung Quốc bắt đầu nhập khẩu nhãn Thái Lan vào năm 1993 nhưng nhập khẩu tăng đáng kể vào năm 2002, tăng từ 60.000 tấn lên hơn 300.000 tấn. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đa dạng hóa nguồn hàng vào năm ngoái bằng cách nhập khẩu nhãn từ Campuchia , ảnh hưởng đến các nhà xuất khẩu Thái Lan. Do đó, xuất khẩu nhãn của Thái Lan sang Trung Quốc đã giảm khoảng 20% ​​so với cùng kỳ năm ngoái. Đồng thời, thị phần của Thái Lan cũng giảm từ 99% xuống 94%.

Nguồn : Produce Report

Chuyên mục
Báo cáo chính sách Giá cả thị trường NÔNG NGHIỆP 360

Báo cáo tình hình nông nghiệp Việt Nam tháng 8, 2023

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn