Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Tuần lễ quảng bá ẩm thực Việt Nam với cơ quan ngoại giao quốc tế

Sáng ngày 27/10 tại Hà Nội, Trung tâm Xúc tiến Thương mại Nông nghiệp, Bộ NN&PTNT đã tổ chức lễ khai mạc Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam với các đại sứ quán nước ngoài tại Việt Nam.san-pham-nuoc-mamĐại diện tham dự lễ khai mạc bao gồm Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền El Salvador tại Việt Nam cùng với các đại diện từ các Đại sứ quán và tham tán nước ngoài tại Việt Nam, bao gồm Vương quốc Anh, Nga, Algeria, Pa-na-ma, Be-la-rut, Indonesia và Nam Phi.

Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam với hệ thống cơ quan ngoại giao và tham tán nước ngoài tại Việt Nam đánh dấu một sự kiện quan trọng trong khuôn khổ chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2023. Chương trình tập trung vào các sản phẩm nước mắm và món ăn đặc trưng kết hợp với nước mắm, đặc biệt là mắm truyền thống và các món ẩm thực đặc trưng từ các vùng miền sử dụng nước mắm. Nhiệm vụ của chương trình là quảng bá và tuyên truyền về lịch sử, câu chuyện sản phẩm và quy trình sản xuất của các sản phẩm nước mắm và ẩm thực từ nước mắm Việt Nam, nhằm nâng cao nhận thức về văn hóa và truyền thống đặc biệt của Việt Nam đến khách du lịch trong và ngoài nước. Tuần lễ cũng đóng góp vào việc thúc đẩy thương mại và tạo liên kết trong việc cung cấp và tiêu thụ sản phẩm nước mắm truyền thống và ẩm thực từ nước mắm.

giao-luu-quoc-teVới diện tích trên 1000m2, Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam đã thiết lập nhiều không gian chính để trưng bày và giới thiệu các sản phẩm nước mắm truyền thống cùng gia vị Việt Nam. Sự kiện cũng bao gồm không gian dành riêng để giới thiệu về ẩm thực cùng các món ăn đặc trưng từ các địa phương, liên kết chặt chẽ với sản phẩm nước mắm truyền thống.

Theo Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại nông nghiệp, ông Nguyễn Minh Tiến, trong khuôn khổ của Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam, nhiều hoạt động đã được tổ chức, bao gồm các buổi toạ đàm và giới thiệu về văn hóa nước mắm và ẩm thực Việt Nam với các đại diện ngoại giao và tham tán nước ngoài tại Việt Nam. Sự kiện cũng bao gồm các talkshow hỏi đáp giữa người tiêu dùng và các chuyên gia, doanh nghiệp, và hợp tác xã về chủ đề nước mắm từ xưa đến nay. Ngoài ra, việc truyền tải và bán hàng cũng được thực hiện thông qua việc livestream quảng bá sản phẩm nước mắm và mắm truyền thống trên nền tảng TikTok Shop.

gioi-thieu-ve-truyen-thong

Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã ra đời từ năm 2018 đến nay, đã thúc đẩy tiềm năng của đất đai và sản vật, tận dụng lợi thế so sánh, đặc biệt là giá trị văn hóa của từng vùng miền. Nhiều sản phẩm OCOP đã thành công trong việc truyền tải những câu chuyện sản phẩm mang tính nhân văn của vùng, từng miền, góp phần thúc đẩy hướng đi về phát triển kinh tế và bảo tồn các nghề truyền thống và giá trị văn hóa đặc trưng.

Thông qua các hoạt động này, việc kết hợp quảng bá và kết nối tiêu thụ nông sản của Việt Nam thông qua văn hoá và ẩm thực sẽ tạo ra một hướng điệu quả và để lại ấn tượng mạnh mẽ đối với người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Thúc đẩy đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn tại vùng ĐBSCL

Vào ngày 30/10, tại thành phố Cần Thơ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) đã tổ chức một Hội nghị nhằm thúc đẩy việc đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tại vùng ĐBSCL. Tham dự và chủ trì hội nghị là Thứ trưởng Trần Thanh Nam.

Hoi-nghi

Hội nghị cũng thu hút sự tham gia của đại diện từ các bộ, ban, ngành Trung ương cũng như địa phương tại các tỉnh trong vùng ĐBSCL, cùng với đại diện từ một số tổ chức quốc tế, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp, nhà đầu tư và các chuyên gia chuyên về nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, vùng ĐBSCL có vai trò quan trọng trong kinh tế nông nghiệp của cả nước, đóng góp trên 33% tổng sản phẩm quốc nội của ngành nông nghiệp và 30% GDP của khu vực. ĐBSCL cũng dẫn đầu cả nước về sản lượng lúa gạo, thủy sản và trái cây. Nơi này đóng góp 56% sản lượng lúa gạo (tương đương 24,5 triệu tấn), 98% sản lượng cá tra (1,41 triệu tấn) và 60% sản lượng trái cây cả nước (4,3 triệu tấn), cũng như chiếm 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% lượng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.

Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, vùng ĐBSCL vẫn đối mặt với nhiều thách thức trong việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Cơ sở hạ tầng vẫn chưa đồng bộ, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông, thủy lợi, điện và thông tin liên lạc. Trình độ sản xuất của nông dân vẫn còn thấp, và năng suất lao động vẫn chưa cao. Ngoài ra, cơ chế và chính sách khuyến khích đầu tư cũng chưa được đồng bộ và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

Để giải quyết các khó khăn trên, Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích để thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tại vùng ĐBSCL. Nhờ những chính sách này, vào năm 2023, tổng vốn đầu tư vào nông nghiệp tại ĐBSCL đạt khoảng 100.000 tỉ đồng, tăng 15% so với năm 2022. Một số dự án đầu tư lớn bao gồm một nhà máy chế biến gạo với công suất 100.000 tấn mỗi năm tại tỉnh Long An (vốn đầu tư 1.000 tỉ đồng); dự án trồng và chế biến trái cây áp dụng công nghệ cao tại tỉnh Tiền Giang (vốn đầu tư 500 tỉ đồng); và dự án nuôi thủy sản áp dụng công nghệ cao tại tỉnh Cà Mau (vốn đầu tư 200 tỉ đồng).

Tại hội nghị, các đại biểu đã thảo luận và trình bày về chính sách khuyến khích thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn tại ĐBSCL. Họ cũng đề cập đến thách thức và cơ hội liên quan đến việc thúc đẩy đầu tư vào ngành nuôi trồng thủy sản trong vùng ĐBSCL trong bối cảnh hiện tại, cũng như xu hướng đầu tư theo hướng bền vững vào nông nghiệp tại khu vực này.

Các ý kiến tại hội nghị cho thấy, để thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn tại ĐBSCL, cần tập trung vào việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Đây được xem là yếu tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc sản xuất và kinh doanh. Các cấp, ngành và địa phương cần hợp tác để đầu tư xây dựng và nâng cấp hệ thống giao thông, thủy lợi, điện và thông tin liên lạc, đặc biệt là tại các khu, cụm công nghiệp nông nghiệp và thủy sản. Đồng thời, cần nâng cao trình độ sản xuất của nông dân và ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất. Các địa phương cũng cần tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng và minh bạch để thu hút cả các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.

Trong bài phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Trần Thanh Nam đã đề cập đến một số vấn đề cụ thể mà vùng ĐBSCL cần tập trung nghiên cứu và thực hiện. Ông nhấn mạnh về việc tận dụng tối đa tiềm năng của các sản phẩm nông nghiệp từ cây ăn trái, lúa gạo và thủy sản. Thứ trưởng cũng khuyến khích các tỉnh trong vùng triển khai nhanh đề án Phát triển bền vững trên diện tích 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, kết hợp việc giảm phát thải với tăng trưởng xanh tại ĐBSCL, đặc biệt trong vụ lúa đông xuân năm 2023-2023, với diện tích 180.000 ha. Ông cũng nhấn mạnh về việc các doanh nghiệp trong ngành lúa gạo cần chia sẻ lợi ích với nông dân thông qua việc tăng cường liên kết với họ và các hợp tác xã.

Bên cạnh đó, ông cũng đề xuất việc tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng và lĩnh vực logistics, đặc biệt là tại các khu vực tập trung nguyên liệu lớn. Trong đó, ông đề cập đến việc xây dựng kho mát để phân loại, bảo quản và sơ chế nhằm nâng cao chất lượng và ổn định giá thành, từ đó tăng cường sức cạnh tranh cho nông sản xuất khẩu và nâng cao chuỗi giá trị trong ngành hàng này.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
Kiến thức nông nghiệp NÔNG NGHIỆP 360

Mô hình canh tác chè hữu cơ, liên kết chuỗi giá trị ở miền Bắc.

Theo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, trong thời gian gần đây, các dự án khuyến nông Trung ương đã tập trung vào việc sử dụng giống chè mới có ưu điểm và tiềm năng, thúc đẩy sản xuất chè hướng hữu cơ, tạo ra sản phẩm chè an toàn, có khả năng truy xuất nguồn gốc và đạt được chứng nhận về chất lượng, giúp cải thiện sự cạnh tranh trên thị trường nội địa và quốc tế.

tra-xanh

Dự án cải thiện quy trình trồng chè hữu cơ và liên kết giá trị ở Bắc Bộ đã được triển khai trên diện tích 32ha tại bốn tỉnh bao gồm Hà Giang (xã Xuân Minh, huyện Quang Bình), Tuyên Quang (xã Hồng Thái, huyện Na Hang), Lai Châu (xã Mường Khoa, huyện Tân Uyên) và Nghệ An (xã Huồi Tụ, huyện Kỳ Sơn) do Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đảm trách. Dự án đã được triển khai từ năm 2021 đến 2023. Dự án tuân theo quy trình kỹ thuật trồng và thâm canh chè theo tiêu chuẩn hữu cơ được quy định bởi Quyết định số 288/QĐ/MNPB-KH ngày 3/4/2020.

Dự án đã xây dựng thành công bốn mô hình thâm canh chè hữu cơ và liên kết chuỗi giá trị tại bốn tỉnh, gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu và Nghệ An, trên tổng diện tích 32 ha, với sự triển khai 8 ha mỗi năm cho mỗi tỉnh. Dự án đã được thực hiện liên tục trong ba năm tại mỗi mô hình. Ngoài ra, đã xây dựng bốn mô hình quản lý sản xuất và kinh doanh, cũng như liên kết tiêu thụ sản phẩm giữa cộng đồng nông dân và các doanh nghiệp.

Sau một năm thực hiện, theo quá trình theo dõi và đánh giá cũng như so sánh về tình trạng sinh trưởng và năng suất, mô hình thâm canh sản xuất chè theo tiêu chuẩn hữu cơ trong dự án đã cho thấy những kết quả đa dạng tại các tỉnh Lai Châu, Tuyên Quang, Hà Giang và Nghệ An. Tại Lai Châu và Tuyên Quang, năng suất chè của mô hình đã giảm so với sản xuất đại trà, với mức giảm lần lượt là 28,12% (từ 8,2 tấn/ha xuống còn 6,4 tấn/ha) và 23,64% (từ 6,8 tấn/hạ xuống còn 5,5 tấn/ha). Ngược lại, tại Hà Giang và Nghệ An, năng suất chè trong mô hình đã tăng lần lượt là 15,95% (từ 4,20 tấn/ha lên 4,87 tấn/ha) và 11,35% (từ 3,70 tấn/ha lên 4,12 tấn/ha). Nguyên nhân chủ yếu là do phương pháp trồng trọt trước đây tại Hà Giang và Nghệ An đã tạo ra cơ sở tốt cho sự tăng trưởng khi được áp dụng bổ sung dinh dưỡng từ phương pháp hữu cơ. Trái ngược, tại Tuyên Quang và Lai Châu, các hộ tham gia mô hình đã sử dụng phân bón hóa học trước đó để tăng năng suất, khi chuyển sang hữu cơ, chỉ sử dụng phân bón vi sinh, năng suất đã giảm đi.

Hiện tại, tất cả sản phẩm chè từ mô hình đã được tiêu thụ với giá bán trung bình tăng 53,84% so với sản phẩm chè truyền thống. Tổng sản lượng chè tươi thu được từ 32 ha mô hình dự án là 167,12 tấn, đem lại doanh thu tăng lên trong khoảng 20,08% đến 49,08%.

Tính đến thời điểm hiện tại, các tổ chức chứng nhận đang tiến hành các bước đánh giá và giám sát mô hình để chuẩn bị cho việc cấp chứng nhận sản phẩm chè từ mô hình/tỉnh theo tiêu chuẩn hữu cơ vào năm 2023.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

FAO: Ước Tính Tác Động Thiên Tai Đối Với Nông Nghiệp

Theo báo cáo mới của FAO, ngành trồng trọt và chăn nuôi trên toàn cầu đã mất khoảng 3,8 nghìn tỷ USD trong vòng 30 năm qua do tác động của thiên tai.

bien-doi-khi-hau

Báo cáo gần đây từ Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO) cho biết trong 30 năm qua, sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi trị giá khoảng 3,8 nghìn tỷ USD đã bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Điều này tương đương với khoảng 123 tỷ USD mỗi năm, hay 5% tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp toàn cầu hàng năm (GDP).

Báo cáo này, mang tựa đề “Tác động của Thiên tai đối với Nông nghiệp và An ninh Lương thực,” cung cấp ước tính toàn cầu đầu tiên về tác động của thiên tai đối với sản xuất nông nghiệp, tập trung vào việc canh tác và chăn nuôi. Báo cáo nhấn mạnh rằng con số này có thể cao hơn nếu có hệ thống dữ liệu về tổn thất trong ngành thủy sản, nuôi trồng thủy sản và lâm nghiệp. Do đó, báo cáo đề xuất cần cải thiện dữ liệu và thông tin về tác động của thiên tai đối với tất cả các ngành nông nghiệp để xây dựng các hệ thống dữ liệu có thể hỗ trợ việc ra quyết định và thực hiện các biện pháp hiệu quả.

Theo báo cáo, trong ba thập kỷ qua, thiên tai – được xác định là những rối loạn nghiêm trọng trong hoạt động của một cộng đồng hoặc xã hội – đã gây ra tổn thất cao nhất cho các quốc gia có thu nhập trung bình thấp và thấp, lên đến 15% GDP nông nghiệp. Thiên tai cũng ảnh hưởng đáng kể đến các quốc đảo nhỏ đang phát triển (SIDS), với tổn thất gần 7% GDP nông nghiệp.

Tổn thất theo nhóm sản phẩm trong nông nghiệp

Theo báo cáo, tổn thất liên quan đến các loại sản phẩm nông nghiệp chính đang có xu hướng gia tăng. Cụ thể, trong ba thập kỷ qua, sản lượng ngũ cốc đã bị mất trung bình 69 triệu tấn mỗi năm, tương đương với sản lượng ngũ cốc của Pháp vào năm 2021. Đối với trái cây, rau quả và mía, mức thiệt hại trung bình hàng năm là 40 triệu tấn. Đối với rau quả, tổn thất tương đương với sản lượng rau quả của Nhật Bản và Việt Nam năm 2021.

Ngoài ra, ước tính thiệt hại đối với mặt hàng thịt, sản phẩm sữa và trứng trung bình đạt 16 triệu tấn mỗi năm, tương đương với sản lượng thịt, sữa, trứng của Mexico và Ấn Độ năm 2021.

Sự khác biệt về tác động của khí hậu theo khu vực

Báo cáo FAO đã chỉ ra sự khác biệt rõ rệt trong tác động của thiên tai đối với các khu vực và quốc gia khác nhau. Châu Á, mặc dù chịu tổn thất kinh tế nông nghiệp lớn nhất, nhưng tổn thất này chỉ chiếm 4% của giá trị gia tăng nông nghiệp. Trong khi đó, ở châu Phi, tổn thất tương đối lớn hơn, đạt gần 8% của giá trị gia tăng nông nghiệp. Sự khác biệt này còn tăng cao hơn khi so sánh các vùng khác nhau.

Mặc dù các nước thuộc các nhóm thu nhập khác nhau có mức thiệt hại khác nhau, các nước thu nhập thấp, đặc biệt là các quốc gia đảo quốc nhỏ (SIDS), thường chịu tỷ lệ thiệt hại cao nhất đối với giá trị gia tăng nông nghiệp.

Tác động đồng thời của các yếu tố thảm họa

Báo cáo của FAO nhấn mạnh rằng các sự kiện thiên tai đang trở nên ngày càng phổ biến và nghiêm trọng hơn. Trong vòng 20 năm qua, số lượng sự kiện thiên tai đã tăng từ 100 mỗi năm vào những năm 1970 lên tới khoảng 400 mỗi năm trên toàn thế giới. Điều đáng lo ngại không chỉ là tần suất tăng, mà cường độ và sự phức tạp của các sự kiện thiên tai cũng ngày càng gia tăng. Báo cáo cũng dự đoán rằng tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn trong tương lai, do các thảm họa liên quan đến biến đổi khí hậu dự kiến ​​sẽ làm gia tăng lỗ hổng xã hội và môi trường sống hiện có.

Báo cáo chỉ ra rằng khi các mối nguy hiểm này xuất hiện, chúng có thể gây ra tác động không chỉ trong một lĩnh vực, mà còn lan tỏa qua nhiều hệ thống và lĩnh vực khác nhau. Các yếu tố gây ra rủi ro thiên tai bao gồm biến đổi khí hậu, tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng, sự gia tăng dân số, tình trạng khẩn cấp về sức khỏe do đại dịch gây ra, các hoạt động quản lý đất đai không bền vững, xung đột vũ trang và suy thoái môi trường.

Mức độ mất mát và thiệt hại gây ra bởi các thảm họa này phụ thuộc vào tốc độ và quy mô không gian mà mà chúng xảy ra, cũng như tình trạng sẵn có của các hệ thống và yếu tố dễ bị tổn thương. Trong những tình huống cực đoan, các thảm họa này có thể dẫn đến di dời và di cư của dân cư nông thôn, gây ra tác động tiêu cực đến hệ thống sản xuất nông sản thực phẩm và gây tăng tình trạng mất an ninh lương thực.

Tăng cường khả năng phục hồi của hệ thống nông nghiệp thực phẩm

Những người nông dân, đặc biệt là những hộ sản xuất nhỏ phụ thuộc vào thời tiết, là nhóm dễ bị tổn thương nhất trong hệ thống nông nghiệp thực phẩm và thường phải chịu thiệt hại nặng nề do các thảm họa thiên tai. Để hỗ trợ họ, việc thực hiện các biện pháp thực hành tốt để giảm thiểu rủi ro từ thiên tai ở cấp trang trại có thể giúp họ tránh được thiệt hại và tăng cường khả năng phục hồi. Đầu tư vào các biện pháp thực hành tốt này có thể mang lại hiệu quả cao hơn trung bình 2,2 lần so với các biện pháp trước đây.

Việc can thiệp một cách tích cực và kịp thời để đối phó với các mối nguy hiểm được dự báo được xem là cực kỳ quan trọng để xây dựng khả năng phục hồi bằng cách ngăn chặn và giảm thiểu rủi ro trong lĩnh vực nông nghiệp. Một số ví dụ đã chứng minh rằng việc đầu tư vào các biện pháp phòng chống và ứng phó thảm họa có tỷ lệ lợi ích/chi phí thuận lợi cao. Báo cáo cho thấy, mỗi đô la đầu tư vào các biện pháp phòng ngừa có thể mang lại lợi ích lên tới 7 đô la và giảm thiểu thiệt hại cho các hộ gia đình nông thôn.

Cuối cùng, báo cáo đề xuất ba hướng tiếp cận chính, bao gồm việc cải thiện dữ liệu và thông tin về tác động của thiên tai đối với tất cả các lĩnh vực nông nghiệp; phát triển và tích hợp các phương pháp tiếp cận giảm thiểu rủi ro từ nhiều loại thiên tai vào các chính sách và chương trình ở mọi cấp; và tăng cường đầu tư vào khả năng phục hồi nhằm tối ưu hóa việc giảm thiểu rủi ro từ thiên tai trong nông nghiệp và cải thiện sản xuất nông nghiệp cũng như sinh kế.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
Hạt ( tiêu, điều, mắc ca ... ) XUẤT NHẬP KHẨU

Ngành điều lo ngại vì chất lượng sản phẩm giảm.

Vào ngày 10/10/2023, ngành sản xuất điều ở Việt Nam đang đứng trước vấn đề quan trọng về chất lượng sản phẩm. Liên tiếp, người tiêu dùng đã đưa ra phản ánh về mối lo ngại về chất lượng sản phẩm, đặc biệt là vấn đề về sự dư lượng trong sản phẩm. Hiệp hội Điều Việt Nam đã phải phát đi thông báo, nhằm bảo vệ danh tiếng của ngành chế biến điều Việt Nam.

Dieu-vietVào chiều ngày 10/10/2023, Hiệp hội Điều Việt Nam (Vinacas) đã tổ chức cuộc họp báo để chia sẻ tình hình hoạt động của ngành trong thời gian gần đây cũng như định hướng trong những tháng còn lại của năm. Ban lãnh đạo Vinacas lưu ý rằng sau hai năm đầy khó khăn vì ảnh hưởng của dịch bệnh và tình hình chiến sự toàn cầu, ngành điều đã bắt đầu phục hồi, đặc biệt là trong những tháng gần đây, lượng đơn đặt hàng cũng tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, từ tháng 6 năm 2023, nhiều lô hàng điều xuất khẩu đến Mỹ và châu Âu liên tục gặp vấn đề với tình trạng nhiễm bệnh do côn trùng.

Theo Vinacas, tình trạng cảnh báo đã ngày càng trở nên nghiêm trọng trong quý 3/2023 do việc tăng ca vào ban đêm làm cho việc khử trùng không đảm bảo thời gian cách ly, từ đó tạo ra dư lượng thuốc trừ sâu trong sản phẩm điều sau chế biến. 

Ông Bạch Khánh Nhựt, Phó chủ tịch thường trực Vinacas, cũng đề cập đến việc các doanh nghiệp nhập khẩu đã lưu trữ hàng trong kho với thời gian dài, dẫn đến sự suy giảm chất lượng của sản phẩm điều chế biến.

Chủ tịch Vinacas, ông Phạm Văn Công, không giấu giếm rằng việc duy trì chất lượng sản phẩm là yếu tố quyết định sự tồn tại của ngành điều Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh từ các nước châu Phi đang ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Ông cũng nhấn mạnh rằng hiện tại không còn thời điểm để che giấu vấn đề chất lượng nữa, mà cần có những giải pháp mạnh mẽ hơn để giải quyết tình trạng này. Vinacas đã đề xuất điều chỉnh giảm chỉ tiêu xuất khẩu điều năm 2023 xuống còn 3,05 tỷ USD, kỳ vọng rằng điều này sẽ giúp cải thiện tình hình chất lượng sản phẩm của ngành trong thời gian tới.

Nguồn: VINACAS

Chuyên mục
Chứng nhận nông nghiệp NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG

Nên ưu tiên nông nghiệp sinh học hay hóa chất cho tương lai bền vững?

Việc cung cấp đủ thực phẩm bền vững cho hơn 8 tỷ dân trên toàn cầu được công nhận là một trong những thách thức lớn nhất của thời đại. Nông nghiệp sinh học, một hệ thống các phương pháp dựa trên cân bằng sinh thái và đa dạng, ngày càng được coi là một giải pháp quan trọng cho vấn đề khổng lồ này.

Roger Tripathi, CEO và người sáng lập của Liên kết Toàn cầu Nông nghiệp Sinh học, giải thích rằng nông nghiệp sinh học đơn giản là việc sử dụng các nguyên liệu và công nghệ xanh, đáp ứng và chịu trách nhiệm với môi trường.

“Theo ông, để giảm thiểu rủi ro cho sức khỏe của người nông dân và người tiêu dùng, cần phải tận dụng tốt nhất từ cả nông nghiệp truyền thống và tự nhiên, kết hợp và tích hợp chúng một cách thông minh và hiệu quả.”

Ông nhấn mạnh, loại mô hình nông nghiệp này đòi hỏi ba điều: cân bằng các khía cạnh vật lý, hóa học và sinh học của đất; phục hồi cân bằng khoáng chất và vi sinh vật trong đất; và tăng mức carbon trong đất.

Liên kết Toàn cầu Nông nghiệp Sinh học cung cấp chuyên môn địa phương cho ngành nông nghiệp về cách đạt được điều này. Mạng lưới toàn cầu của họ cung cấp nhiều dịch vụ bao gồm hỗ trợ về quỹ, các vấn đề quy định, nguồn nhân lực, kế hoạch tiếp thị và kiểm toán, cùng với sự kiện Hội nghị Thế giới BioAgTech diễn ra hàng năm.

Nedward gần đây đã bắt kịp với AgFunderNews để thảo luận về sự quan trọng của Nông nghiệp Sinh học và hướng đi tiếp theo của nó.

mat-tuong-phan

AFN: Những thách thức chính của nền nông nghiệp trên thế giới là gì? Tại sao nông nghiệp sinh học là cần thiết để giải quyết những thách thức này?

RT: Mặc dù việc cung cấp thực phẩm chất lượng cho mọi người với tài nguyên ngày càng hạn chế là thách thức lớn nhất, bền vững và hiệu quả rõ ràng là hai nhu cầu và quan tâm chung quanh thế giới đối với nông nghiệp.

Một điều quan trọng cần tập trung là quay trở lại nguyên tắc của các phương pháp nông nghiệp bản địa trong khi kết hợp công nghệ hiện đại. Nông nghiệp sinh học kết hợp với công nghệ nông nghiệp là câu trả lời cho nhiều vấn đề về sức khỏe đất đai và cây trồng.

Sức khỏe đất là cốt lõi của mọi thứ trong nông nghiệp. Cần phải xem xét lại khái niệm về mẹ thiên nhiên để tôn trọng tài nguyên tự nhiên và sử dụng chúng một cách có hiệu quả trong khi sử dụng chính xác và công nghệ nông nghiệp để đạt được hiệu suất tối đa. Nông nghiệp ngày nay phải bền vững, hiệu quả, tập trung vào người nông dân, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và thân thiện với môi trường. Nông nghiệp sinh học, nông nghiệp chính xác, công nghệ nông nghiệp và công nghệ sinh học cần phải đi đôi với nhau.

Sáng tạo tạo nên cột sống của bất kỳ doanh nghiệp nào; nông nghiệp cũng không phải là ngoại lệ. Việc sử dụng trí tuệ nhân tạo, công nghệ nano, GPS cho nông nghiệp, robot, IoT, v.v. có khả năng cải tổ nông nghiệp. Đó là lý do tại sao Hội nghị Thế giới BioAgTech hiện đã phát triển thành Hội nghị Thế giới BioAgTech.

Tuy nhiên, sáng tạo không phải lúc nào cũng có nghĩa là tạo ra điều gì đó mà trước đây chưa từng tồn tại; đó cũng là việc áp dụng các khái niệm hoặc công nghệ hiện có để giải quyết vấn đề chưa được giải quyết. Không thể phủ nhận rằng chúng ta cần nhiều sáng kiến ​​hơn nữa để đạt được mục tiêu bền vững và an ninh lương thực, nhưng chúng ta cũng cần ý tưởng để sử dụng các sáng kiến ​​hiện có theo cách mới hoặc tốt hơn. Tôi gọi đó là ‘Các Phương pháp Nông nghiệp Bền vững Tích hợp’.

AFN: Các công ty đang phản ứng như thế nào với nhu cầu sáng tạo nông nghiệp sinh học?

RT: Các công ty trong lĩnh vực nông nghiệp hiểu rằng đến lúc phải chuyển sang nông nghiệp sinh học. Ngày càng nhiều công ty nông nghiệp quan tâm đến ngành này và đang tìm cách đóng góp.

Các công ty lớn như Syngenta, Corteva, UPL, Bayer và nhiều công ty khác liên tục đầu tư vào nông nghiệp sinh học. Do đó, chúng tôi cũng thấy việc sáp nhập và mua lại lớn đang diễn ra trên khắp lĩnh vực, điều này rõ ràng cho thấy sự quan tâm ngày càng tăng của các công ty trong việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm và công nghệ độc đáo bởi các công ty khởi nghiệp. Tại GBL, chúng tôi hiểu rằng làm việc đơn lẻ không phải là lợi ích tốt nhất của nông nghiệp, do đó tại Hội nghị BAW, chúng tôi tập hợp tất cả các nhà chơi nông nghiệp sinh học nghiêm túc trên một nền tảng với ý định xây dựng một cộng đồng nông nghiệp sinh học mạnh mẽ để hỗ trợ lẫn nhau và làm cho Nông nghiệp Sinh học phát triển.

cuoc-hop

AFN: Điều gì có thể trở thành ổ dịch cho sáng tạo nông nghiệp sinh học trong tương lai?

RT: Brazil là một người chơi chính trong nông nghiệp toàn cầu, khi đó là quốc gia dẫn đầu về xuất khẩu nhiều loại mùa vụ đến thế giới. Ưu điểm về địa lý và khí hậu, đa dạng sinh học phong phú, liên tục mở rộng, cộng với chính sách nông nghiệp thuận lợi của Brazil làm cho Brazil trở thành nơi phù hợp để đổi mới cách mạng trong nông nghiệp sinh học.

Nhiều năm nay tôi đã tin rằng Brazil sẽ sớm trở thành người dẫn đầu thế giới về nông nghiệp sinh học, lâu trước khi nó tăng lên đến độ cao như ngày nay. Đây chính xác là lý do tại sao chúng tôi chọn địa điểm cho Hội nghị BAW lần trước. Châu Mỹ Latinh đã được công nhận là có một trong những hệ thống nông nghiệp và thực phẩm tốt nhất thế giới. Brazil đã dẫn đầu trong việc hợp nhất và đã chứng kiến một số lượng lớn sáp nhập trong vài năm qua. Ngày càng nhiều công ty nông nghiệp sinh học đang gia nhập thị trường nông nghiệp Brazil. Tất cả những yếu tố này cùng nhau đã làm nổi bật ngành công nghiệp Nông nghiệp Brazil trên bản đồ thế giới. Sự thành công của một Hội nghị BAW thực sự toàn cầu tại Brazil cũng đến từ việc Châu Mỹ Latinh với Brazil đang dẫn đầu.

AFN: Loại công nghệ và sáng kiến nào trong nông nghiệp sinh học mà bạn cảm thấy thú vị?

RT: Gần như mọi thứ đang diễn ra trong công nghệ và sáng kiến nông nghiệp sinh học đều rất thú vị. Thật tuyệt vời khi thấy sự áp dụng của các công nghệ tiên tiến như hiểu biết và tùy chỉnh sáng tạo với đất và vi sinh vật cây trồng, trí tuệ nhân tạo, GPS, robot và máy bay không người lái để làm cho nông nghiệp hiệu quả hơn. Sự hợp tác giữa công nghệ và nông nghiệp để đưa ra các công nghệ nông nghiệp mới và nông nghiệp chính xác để giải quyết những vấn đề cấp bách khiến tôi rất phấn khích.

Tôi cũng thích thấy sự hợp tác thông qua việc sáp nhập và mua lại đang làm mạnh mẽ ngành công nghiệp và cơ sở hạ tầng của chúng tôi, cho phép chúng tôi đưa sản phẩm nông nghiệp sinh học của mình lên sân khấu thế giới. Nông nghiệp tương lai sẽ liên quan đến việc thu được giá trị tối đa từ mỗi xu đầu tư trong khi tái tạo đất và môi trường của chúng ta, và những công nghệ này chỉ là bắt đầu.

Nguồn: Agfunder News

Chuyên mục
AGRITECH Công nghệ mới

FDA cảnh báo công ty nông nghiệp phân tử về rủi ro dị ứng thực phẩm.

Ở Mỹ, cơ quan quản lý FDA đã cảnh báo các công ty mới trong lĩnh vực nông nghiệp phân tử rằng việc biểu hiện protein động vật điển hình là protein có trong trứng và sữa các loại cây được kỹ thuật di truyền như đậu nành sẽ đòi hỏi quản lý nghiêm ngặt về dị ứng.

Được biết, trước kia protein động vật chỉ được sản xuất bởi động vật. Tuy nhiên, hiện nay các công ty mới đang sản xuất protein trứng, sữa và thịt trong vi khuẩn (lên men chính xác), thực vật (nông nghiệp phân tử), và tế bào động vật được nuôi cấy (sản phẩm từ thịt/sữa nuôi cấy), các phương tiện sản xuất mà họ cho rằng là thân thiện với môi trường hơn, nhân văn hơn và hiệu quả hơn.

Mỗi phương pháp đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, trong khi các công ty nông nghiệp phân tử khẳng định việc sử dụng các loại cây lương thực chính như ngô và đậu nành là chiến lược tiết kiệm chi phí nhất. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra mối lo ngại về dị ứng.

Trong một lá thư mở được công bố vào thứ Năm, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) nhắc nhở các doanh nghiệp về các yêu cầu pháp lý đối với các sản phẩm như vậy. “Bởi vì phản ứng phụ do dị ứng thực phẩm có thể gây nguy hiểm đến tính mạng… chúng tôi nghĩ rằng việc liên hệ với các nhà phát triển và nhà sản xuất ngay bây giờ, khi các loại cây này vẫn đang ở giai đoạn nghiên cứu và phát triển sớm là rất quan trọng”.

FDA yêu cầu các nhà phát triển “xem xét các rủi ro về an toàn thực phẩm do dị ứng và lên kế hoạch từ sớm trong quá trình phát triển để quản lý các rủi ro,” nhưng cũng nhấn mạnh về các rủi ro của “dị ứng không mong đợi và không được đánh dấu” nhập vào chuỗi cung ứng thực phẩm, có thể “gây ra các hậu quả khác… chẳng hạn như cần phải rút lại các sản phẩm bị ảnh hưởng.”

Ngoài ra, FDA cũng chia sẻ thêm: “Chúng tôi nhắc nhở họ xem xét các vấn đề liên quan đến dị ứng liên quan đến sản phẩm của họ, và cách họ sẽ được quản lý từ sản xuất đến sản xuất đến tiêu thụ để đảm bảo rằng chúng không vô tình hoặc không mong đợi nhập vào chuỗi cung ứng thực phẩm. Chúng tôi cũng nhắc nhở họ rằng họ cần được đánh dấu đúng cách khi có ý định là một phần của chuỗi cung ứng thực phẩm.”

Hỗn hợp được pha ngẫu nhiên

Cơ quan FDA cảnh báo: “Nếu công ty của bạn đang phát triển một loại cây có gen chuyển mã xuất hiện mã hóa một dị ứng thực phẩm…. Các phương pháp quản lý sẽ có thể khó khăn và phức tạp hơn so với các loại cây khác.

“Khi xem xét kế hoạch quản lý rủi ro chủ động của bạn, bạn sẽ có thể phải tăng cường đáng kể các chiến lược giảm thiểu tiêu chuẩn và các thực hành như phân chia lô để cung cấp mức đảm bảo an toàn thực phẩm cần thiết để ngăn chặn việc hỗn hợp vô tình của thực phẩm chứa dị ứng chuyển giao với các loại thực phẩm khác.”

Các đơn vị trồng trọt, vận chuyển, chế biến, nhà sản xuất thực phẩm và những người khác trong chuỗi cung ứng “có thể cần tuân theo các biện pháp đặc biệt liên quan đến phát triển hạt giống và trồng trọt, lưu trữ vật liệu thu hoạch và việc làm sạch kỹ càng của máy móc ở mỗi bước để ngăn chặn việc trộn lẫn vô tình của các loại cây mới với các loại và sản phẩm khác không chứa dị ứng,” bạn thêm vào.

Magi-Richani

Nobell Foods đang xây dựng hệ thống hoàn toàn khép kín

Khi được yêu cầu bình luận về lá thư, startup nông nghiệp phân tử Nobell Foods (một công ty thuộc danh mục của AgFunder sản xuất protein sữa trong đậu nành để sử dụng trong phô mai không chứa động vật mới) cho biết với AFN rằng Nobell đang xây dựng “hệ thống vòng đóng để đảm bảo việc kiểm soát đầy đủ bất kỳ dị ứng tiềm ẩn nào.”

Người sáng lập Magi Richani giải thích: “Tại Nobell, chúng tôi đã đặt ra nhiệm vụ tạo ra thực phẩm không động vật an toàn, bền vững và phù hợp với túi tiền. Việc cung cấp sự minh bạch cho người tiêu dùng cũng như chuỗi cung ứng an toàn và đáng tin cậy là trách nhiệm hàng đầu của chúng tôi. Đó là lý do tại sao chúng tôi tập trung vào việc tuân thủ tất cả các yêu cầu từ FDA và USDA.”

Nói chuyện với AFN vào đầu năm nay, Richani giải thích rằng đậu nành được kỹ thuật di truyền để sản xuất protein sữa sẽ tạo ra ba dòng sản phẩm. Dầu, được tinh chế đến mức không còn protein; protein sữa được tinh chế; và protein đậu nành, có lẽ sẽ chứa một số lượng nhỏ protein sữa còn lại.

Cần rõ ràng khi ghi nhãn

Cô nói: ” Dầu đã qua tinh chế nên không thể giữa lại DNA gốc. Với nhiều loại cây được kỹ thuật di truyền, bạn vẫn có thể trích xuất dầu từ đó mà không phải lo lắng về ô nhiễm.

Vấn đề là không thể tách 2 loại protein của sữa và đậu nành, nên phải cảnh báo rõ với khách hàng bằng nhãn [dị ứng sữa] . Mục tiêu sẽ là sử dụng nó trong các ứng dụng mà bạn đã có đậu nành và cũng có giá trị từ việc có protein sữa, hoặc để sử dụng trong các sản phẩm mà người tiêu dùng đã sử dụng đậu nành và protein sữa cùng nhau.

“Đương nhiên chúng tôi sẽ công khai những thông tin, ví dụ như ‘ đây là sản phẩm từ đậu nành và sữa’ hãy chú ý nếu bạn dị ứng với protein sữa. cùng một lúc, nhưng đa số là đậu nành với khoảng 80% đậu nành và 10% sữa. Thực tế có các chức năng và tính chất thú vị mà bạn có thể nhận được từ việc có một chút sữa trong phân đoạn đậu nành, nhưng phải rõ ràng trong việc ghi nhãn.”

“Moolec đánh giá cao sự chỉ đạo rõ ràng được cung cấp bởi FDA trong lá thư này đến các nhà sản xuất và nhà phát triển của các loại cây mới. Chúng tôi chắc chắn thấy lá thư này nhất quán với các cuộc trò chuyện chúng tôi đã có với FDA về Nông nghiệp phân tử để sản xuất các thành phần thực phẩm cải tiến.” Gastón Paladini, đồng sáng lập và CEO của Moolec Science.

IngredientWerks: Tương tác với cơ quan quản lý

Matt Plavan, CEO tại IngredientWerks, một công ty đã đệ trình bằng sáng chế về việc biểu hiện casein, myoglobin và leghemoglobin trong ngô, cho biết với AFN: “Việc tương tác với FDA và USDA từ đầu của chương trình phát triển của chúng tôi là một thói quen. Điều này đảm bảo rằng chúng tôi hoàn toàn thống nhất để trồng trọt thành công và giải phóng quy định cho các loại cây mới của chúng tôi. Phương pháp này đã đồng hành cùng chúng tôi rất lâu và mong muốn của chúng tôi là cải thiện được mức độ dinh dưỡng, đa dạng hương vị , cũng cố tính bền vững từ bên trong của thực phẩm trong tương lai.

Tal-Lutzky - CEO

Pigmentum: Không phải tất cả các phương pháp nông nghiệp phân tử đều giống nhau

Tuy nhiên, không phải tất cả các hoạt động nông nghiệp phân tử đều đối diện với những thách thức giống nhau, theo khẳng định của startup Israel Pigmentum, đang sản xuất một loạt các thành phần thực phẩm có giá trị cao từ protein casein đến vanilin trong hệ thống trồng trong nhà sử dụng rau diếp làm chủ thể.

Theo CEO và đồng sáng lập Tal Lutzky, rau diếp phát triển nhanh hơn so với đậu nành và ngô và ít gây ra vấn đề về quy định và lo ngại về dị ứng vì nó có thể phát triển trong nhà trong một hệ thống bị chứa kín.

“Chúng tôi đang xem xét vấn đề về tính an toàn trong thực phẩm, cụ thể dị ứng trở thành một chủ đề chính mà chúng tôi hướng tới cho các quy trình và công nghệ đưa vào ứng dụng sau này. Điều này là một trong những lý do chính mà chúng tôi đã chọn rau diếp làm đối tượng sản xuất.

“Cập nhật của FDA nhấn mạnh những lợi ích của việc trồng trọt trong nhà trong điều kiện đóng kín hơn là trồng trọt ngoài trời về mặt thương mại hóa và các khía cạnh an toàn. Đặc biệt là liên quan đến các hợp chất gây dị ứng.”

Nguồn: Agfundernews

Chuyên mục
Chứng chỉ Carbon NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG

Nền tảng HowGood nhằm giảm khí thải từ đất.

Việc các doanh nghiệp không đạt được mục tiêu bền vững là một vấn đề khá phổ biến, nhưng có một sự cấp thiết mới xung quanh nó trước tình trạng biến đổi khí hậu đang diễn ra nhanh chóng và trách nhiệm của lĩnh vực nông nghiệp và thực phẩm đối với một phần ba lượng khí thải toàn cầu phải được chú ý. Trong khi người tiêu dùng, nhà đầu tư và chính phủ đang đòi hỏi sự truy xuất và bền vững hơn trong chuỗi cung ứng thực phẩm, các công ty vẫn đau đầu trong việc đo lường tác động xã hội và môi trường của họ.

Khi nói đến các ngành công nghiệp tổn hại đất đai, mức độ cấp bách còn lớn hơn. Các ngành lâm nghiệp, đất đai và nông nghiệp chiếm khoảng một phần tư lượng khí thải toàn cầu; chúng cũng có tiềm năng khổng lồ trong việc loại bỏ và lưu trữ carbon trong đất.

Rào cảng các công ty đang đối mặt

Như ông Ethan Soloviev, giám đốc sáng tạo chính của HowGood, nói với AgFunderNews năm ngoái, “công việc này khá tẻ nhạt, việc sắp xếp các nghiên cứu lớn, nhỏ  đang tạo ra trở ngại trong việc thực hiện các thay đổi bền vững.”

HowGood gần đây đã phát hành một công cụ để giải quyết vấn đề này. Bảng điều khiển phát thải FLAG của họ, có sẵn trong nền tảng SaaS của công ty là Latis, nhằm giúp các công ty thực phẩm và đồ uống xác định các cơ sở dữ liệu phát thải chính xác và đề ra chiến lược để cải thiện các thực hành bền vững.

Sản phẩm này ra mắt trước khi có các cập nhật cho các hướng dẫn FLAG (Forest, Land, and Agriculture) được thiết lập bởi sáng kiến Mục tiêu Dựa trên Khoa học (SBTi), mà hợp tác với các công ty để đặt ra mục tiêu giảm lượng phát thải. Hướng dẫn này nhằm cung cấp cho các công ty một “hiểu biết dựa trên khoa học” về việc họ cần cắt giảm phát thải liên quan đến đất đai nhanh chóng để duy trì mục tiêu Thỏa thuận Paris về giới hạn nhiệt độ toàn cầu tăng 1,5°C so với mức tiền công nghiệp.

Cùng theo dõi các ứng dụng đất với ‘dữ liệu chi tiết’

“Lợi ích lớn nhất của công cụ của chúng tôi mang lại là dữ liệu rất chi tiết,” Lizz Aspley, nhà khoa học dữ liệu hàng đầu tại HowGood, cho biết AgFunder News.

Công cụ Latis của HowGood sử dụng hơn 600 nguồn dữ liệu để cung cấp thông tin cho các công ty về hơn 33.000 thành phần. Fairtrade America, Ủy ban Châu Âu, Cục Thống kê Nông nghiệp Quốc gia Hoa Kỳ và Biodiversity International là một số ví dụ về đối tác cung cấp dữ liệu của tổ chức.

Điều này giúp các công ty thực phẩm tính toán tác động xã hội và môi trường của họ. Điều chỉnh sản phẩm của họ để phù hợp hơn với các mục tiêu bền vững về phát thải, sử dụng nước, rủi ro lao động và các yếu tố khác.

Cơ sở dữ liệu FLAG mới bổ sung thêm mục sử dụng đất vào thanh công cụ.

” Hãy nhìn vào những lợi ích mà công cụ FLAG mang lại , bạn có thể xem [phát thải FLAG], với rất nhiều doanh mục lớn nhỏ,” Aspley, người dẫn đầu công việc trên công cụ này chia sẽ: “Chúng tôi chia nhỏ nó thành quản lý đất và thay đổi sử dụng đất. Nhưng sau đó, công cụ của chúng tôi cũng hỗ trợ bạn tái cấu trúc sản phẩm và xem xét thật kĩ cách mà nó ảnh hưởng đến phát thải đó.”
 HowGood

Cách hoạt động

“Khách hàng có thể sử dụng cơ sở dữ liệu FLAG để xác định cơ sở về lượng phát thải của họ liên quan đến rừng đất và nông nghiệp,” Aspley nói. Tuy nhiên, sau khi họ đã xác định mục tiêu với SBTi, họ có khả năng sử dụng công cụ này để tích hợp những mục tiêu đó vào hệ thống Latis và thực hiện các biện pháp hướng đến mục tiêu giảm lượng khí thải thực tế của họ.

Giả sử một công ty thực phẩm có 50 sản phẩm khác nhau được sản xuất cho cùng một CPG. Công ty có thể tải lên các công thức của 50 sản phẩm này vào công cụ Latis của HowGood.

Phân tích xem có bao nhiêu thành phần của mỗi nguyên liệu được đưa vào sản phẩm cuối cùng, hệ thống của HowGood sau đó đánh giá tác động môi trường và xã hội của nó dựa trên các chỉ số sau: phát thải khí nhà kính; xử lý (ví dụ, năng lượng được sử dụng để sản xuất sản phẩm), sử dụng nước xanh, tác động đa dạng sinh học, sức khỏe đất, sử dụng đất, phúc lợi động vật và rủi ro lao động.

Đối với mỗi chỉ số, sản phẩm nhận được một điểm số từ 1-10, với 10 là điểm cao nhất, hoặc “phục hồi”. Các điểm số chỉ số cá nhân đó sau đó được tổng hợp thành một điểm tác động tổng thể trên tổng số 100.

Sau khi tất cả các công thức đã được đưa vào, các công ty có thể nhìn thấy một cơ sở mà có thể được đưa vào công cụ FLAG của SBTi, mà sẽ cung cấp một mục tiêu giảm lượng phát thải.

Latis là gì ?

Trong khi đó, Latis có thể cho một công ty biết khoảng cách giữa mục tiêu và nơi mà công ty đang đứng hiện tại. Ví dụ, nó sẽ cho một công ty biết nguyên liệu tạo ra lượng khí thải carbon nhiều nhất và giúp người dùng mô phỏng các công thức thay thế và các kịch bản cung cấp nguồn hàng.

“Aspley nói, “Chúng tôi thực sự đào sâu vào chi tiết và cung cấp một phân tích rất chi tiết. “Không phải tất cả miến thịt đều giống nhau”,

Từ việc đo lường đến việc giảm lượng phát thải

Mục tiêu bền vững của doanh nghiệp hiếm khi tính đến lượng phát thải liên quan đến đất đai, bao gồm những thứ như phá rừng để sử dụng đất và phát thải khí metan và phân bón, giữa các lĩnh vực khác. Đối với một số người, các phát thải này – thường rơi vào Phạm vi 3 – lên đến 80% tổng lượng phát thải của một công ty.

Aspley cho biết, “theo ý kiến của tôi, cơ sở dữ liệu FLAG sẽ đóng một vai trò vô cùng quan trọng, đặc biệt khi khách hàng tiến xa hơn và hợp tác với các nhà cung cấp của họ.”

“Ngành đất đai tận dụng những giải pháp dựa trên tự nhiên hiệu quả nhất và hiệu quả nhất để loại bỏ và lưu trữ carbon. Việc giảm phá rừng là một trong những hoạt động giảm nhẹ biến đổi khí hậu quan trọng nhất mà chúng tôi trong ngành thực phẩm có,” Soloviev nói, “Chúng tôi thúc đẩy bởi những gì FLAG cung cấp để đo lường lượng khí nhà kính theo tiêu chuẩn khoa học với độ chính xác cao , với những gì Latis có thể làm là đưa ra một công cụ hướng thực hiện các hành động hỗ trợ những người đang cố gắng đo lường còn giảm phát thải từ ngành đất đai.”

Nguồn: Agfundernews

Chuyên mục
Tin tức

Hành trình REC REC – Snack dế sấy khô gói 25g

Hành trình REC REC từ chú dế nhỏ trở thành snack được xuất khẩu và được đón nhận không phải là khoảng thời gian ngắn. Mời bạn cùng FoodMap tìm hiểu chi tiết những cột mốc đáng nhớ của snack dế sấy khô gói 25g vị wasabi, phô mai, trứng muối,…và trong tương lai sẽ còn nhiều vị hơn nữa. Đọc ngay bài viết này nhé!

Hành trình REC REC: Đưa dế vào bữa ăn của người Việt

hanh trinh cua snack rec rec

Với người Việt, dế là một loài động vật quen thuộc nhưng chưa được ứng dụng rộng rãi trong ngành ẩm thực. Snack dế sấy REC REC là một sản phẩm độc đáo, giúp người tiêu dùng tiếp cận với thực phẩm tương lai một cách dễ dàng, bên cạnh vị ngon nó còn giàu dinh dưỡng, tốt cho sức khỏe.

Trên thực tế, việc ăn thứ gì đó làm từ dế và côn trùng vẫn được liệt vào danh sách đặc sản – điều đó có nghĩa là bạn không thể có sẵn nếu muốn. Điều này có thể do yếu tố tự nhiên theo mùa, yếu tố vùng miền.

Và dế là tương tự trước đây. Tuy nhiên, với sự ra đời của chế độ nô lệ công nghiệp và quy trình đóng gói như Rec Rec, vấn đề về nguồn cung cấp thực phẩm đã được giải quyết – chúng ta có thể tiếp cận món ngon này một cách đơn giản và an toàn hơn bao giờ hết.

Nguồn dế của REC REC được chủ động chọn lọc và nuôi tại các trang trại từ giai đoạn trứng, sau đó đến thời điểm thích hợp sẽ được thu hoạch, chế biến, chế biến theo quy trình khép kín đảm bảo vệ sinh thực phẩm, an toàn đóng gói rồi đưa ra thị trường. REC REC gần như là đơn vị duy nhất có thể xuất khẩu sản phẩm dế sang Châu Âu, có thể coi đây là minh chứng cho yếu tố an toàn của món ăn vặt này.

>> Mua Combo Snack Dế Sấy Trải Nghiệm 3 Vị chỉ 77k

Cột mốc đáng nhớ snack dế sấy

cot moc dang nho

Cricket One – nhà sản xuất và xuất khẩu đạm dế tới 20 thị trường. Được thành lập vào năm 2017, công ty là đơn vị thứ hai trên thế giới nhận được chứng chỉ thực phẩm mới từ Cao ủy Châu Âu, cho phép công ty bán sản phẩm trên khắp EU.

Dù được biết đến ở nước ngoài nhưng tên công ty vẫn còn xa lạ với người Việt. Năm 2016-2018, họ tìm kiếm cơ hội ở thị trường trong nước nhưng không thành công.

Trở ngại lớn nhất là việc sử dụng côn trùng làm thực phẩm chưa phổ biến. Chị Bích nói: Chúng tôi đã tiếp cận nhiều công ty thực phẩm để giới thiệu nhưng rất khó được đón nhận.

Không từ bỏ ý định bán thịt dế cho người Việt, động lực nảy sinh khi khối lượng xuất khẩu dế nguyên con làm món ăn vặt tăng nhanh ở Bắc Mỹ và châu Âu trong 2 năm qua. Đây là thời điểm thích hợp để hành động, Bích không thể gõ cửa các công ty thực phẩm như trước để cầu may nữa.Phải có một hướng đi táo bạo hơn, chị tự nhủ.

Vì vậy, họ quyết định tự sản xuất snack dế. Về mặt phân phối, REC REC hợp tác với nền tảng thương mại điện tử chuyên về nông sản FoodMap từ tháng 9 năm 2022. Hai bên thống nhất đóng góp 1 tỷ đồng, tỷ lệ 50-50 để thành lập REC REC.

Họ cũng đang cung cấp nhân lực cho giai đoạn 1 và 2 để làm việc trực tiếp với đội ngũ nhân sự độc lập của dự án.

Ban đầu, nhóm sáng lập dự định kinh doanh các sản phẩm đặc sản. Tuy nhiên, sau khi tiến hành nghiên cứu, họ quyết định thâm nhập trực tiếp vào thị trường snack phổ thông. Chúng tôi đang hoàn thiện mọi thứ từ tiêu chuẩn chất lượng, bao bì, hương vị để có thể lên kệ siêu thị bên cạnh các dòng đồ ăn vặt hiện có, chị Bích nói.

Bích cho biết, khi bắt đầu thực hiện, cô mới nhận ra nó khó đến nhường nào. Khó nhất là khâu nghiên cứu và phát triển thành phẩm, từ hương vị đến hình thức. Để tìm ra phân khúc, tình huống sử dụng sản phẩm, chính sách giá và nhận dạng, họ tiến hành nhiều vòng nghiên cứu thị trường với nhiều nhóm khách hàng và độ tuổi khác nhau.

Nhờ đó, họ nhận ra rằng ăn vặt là một nét văn hóa chứ không chỉ ăn để thỏa mãn cơn đói. Ai cũng có thể và muốn ăn vặt mọi lúc, dù no hay không thì ăn vặt, dù buồn hay vui thì ăn vặt, một mình hay với nhiều người cũng ăn vặt được, Bích kể.

Tuy nhiên, snack ở Việt Nam chủ yếu bao gồm các loại tinh bột như khoai tây, bột mì, bột gạo và bột ngô. Sự khác biệt giữa các nhãn hiệu chỉ là sự thay đổi về hình dạng, kết cấu và gia vị. Điểm yếu chung là họ thường bị gắn mác là nghèo dinh dưỡng.

Những con số ấn tượng sản phẩm REC REC

con so an tuong

REC REC không chỉ là món ăn nhẹ tốt cho sức khỏe mà còn là món ăn nhẹ bổ dưỡng, tiện lợi và phù hợp cho những bữa tiệc bia tại nhà hay trong các quán bar, dành cho dân văn phòng hay những chuyến đi chơi xa. Bởi nó chứa tới 15g protein, kẽm (gấp 3 lần hàu), sắt, kali, magie, chất xơ, vitamin A, E, B3/5/7/9/12.

Đội ngũ của Bích nhận thấy rằng bằng cách sử dụng dế nguyên con và không dùng dầu thực vật, mỗi gói Rec Rec cung cấp 14-15g protein, tương đương với một khẩu phần protein cho người lớn trong mỗi bữa ăn, cùng với các vitamin và khoáng chất. Để dễ ăn hơn, sẽ có 3 vị dế: Wasabi, trứng muối và phô mai.

Snack được sản xuất tại nhà máy CricketOne, sử dụng cơ sở vật chất và nguyên liệu sẵn có, với công suất tối đa 100.000 túi/tuần. CricketOne hiện sản xuất 45 tấn nguyên liệu thô mỗi tuần và con số này sẽ tăng lên 150 tấn vào tháng 7.

Ra mắt vào tháng 2 năm 2023, hơn 10.000 gói snack dế đã được tiêu thụ qua các kênh trực tuyến và mạng xã hội. Hiện tại, sản phẩm cũng đã có mặt trên kệ của các cửa hàng văn phòng phẩm Fine Life, BRG, Nam An và có mặt tại Aeon, Kohnan, Circle K.

30% người tiêu dùng chào đón và sử dụng sản phẩm, 20% trung lập và 50% từ chối sử dụng.Với kết quả này, sứ mệnh của REC REC là phục vụ nhóm 30%, giới thiệu sản phẩm mới để chinh phục nhóm 20%, còn nhóm 50% hãy để thị trường dần dần chinh phục.

Mong muốn mở rộng thương hiệu REC REC

mong muon mo rong thuong hieu

Theo kế hoạch, REC REC sẽ tung ra các kích cỡ gói mới, bổ sung thêm các hương vị như barbeque, sả ớt, nguyên bản. Sau đó, họ chuẩn bị đồ ăn nhẹ bằng bột protein dế. Bản thân sản phẩm ra mắt của startup là món ăn vặt dế khô nguyên con, được Bích gọi là món hardcore nhất từ ​​trước đến nay. Vì vậy, nếu khách hàng chấp nhận điều này, sản phẩm protein dế sẽ có cơ hội phát triển cao hơn.

Statista dự báo thị trường snack Việt Nam sẽ tăng trưởng 8,93% mỗi năm trong 5 năm tới, đạt quy mô 8,91 tỷ USD vào năm 2028. FoodMap lạc quan rằng nhu cầu ăn uống lành mạnh đang tăng lên, giúp tỷ lệ quay lại mua sắm đồ ăn nhẹ từ dế tăng cao.Tôi kỳ vọng khoảng 4 đến 5 năm nữa, việc ăn các sản phẩm dế hoặc các sản phẩm thay thế protein bền vững khác sẽ trở nên rất phổ biến, Thanh Thái nói.

Con đường chinh phục thị trường trong nước chỉ mới bắt đầu nhưng startup này đang tích cực hướng tới thị trường quốc tế. Để đánh giá phản ứng, họ đã huy động được 10.000 USD trên nền tảng Indiegogo của Hoa Kỳ vào tháng 3. Cuộc gọi vốn kết thúc nhanh chóng sau 3 ngày, với số tiền nhận được từ người dùng ở 5 quốc gia, bao gồm Hoa Kỳ, Singapore và Úc.

Tương lai của mô hình ăn vặt dế ở Việt Nam vẫn còn khó đoán. Tuy nhiên, nhìn sang các thị trường lân cận và dẫn đầu như Thái Lan, thách thức không hề nhỏ. Có hơn 20.000 trang trại dế ở quốc gia Đông Nam Á này, sản xuất hơn 700 tấn dế mỗi năm.

Hành trình REC REC cùng chú dế nhỏ vươn mình bay nhảy khắp thế giới là một tương lai không gần. Ở thời điểm hiện tại, FoodMap sẽ tập trung vào vị ngon và hình thức sản phẩm snack dế hơn là tầm nhìn vĩ mô. Cảm ơn bạn đã dành thời gian đã đọc bài viết này.

Chuyên mục
TIN NÔNG NGHIỆP Tin tức

Lúa Lai – Kỷ Lục Năng Suất 18,77 tấn/ha

Kỷ lục năng suất lúa lai 8022 đã khiến cả thế giới nể phục, mở ra một trang mới trong sản xuất lúa gạo. Hãy cùng khám phá câu chuyện ẩn sau con số ấn tượng này và tìm hiểu cách công nghệ nông nghiệp hiện đại đang thay đổi cách chúng ta trồng trọt.

Lúa Lai 8022 : Kỷ Lục Vượt Trội

Giống lúa 8022 Trung Quốc là một biểu tượng của sự đột phá trong ngành nông nghiệp. Đây là một sản phẩm của sự kết hợp giữa kỹ thuật lai tạo tiên tiến và các phương pháp trồng trọt hiệu quả. Lúa lai 8022 thể hiện sự phát triển đồng đều, hạt to, nhiều, tỷ lệ đậu hạt cao, và màu sắc giai đoạn muộn tốt. Điều này không chỉ mang lại lợi ích cho người nông dân mà còn đóng góp vào nguồn cung cấp lúa gạo thế giới.

Kỹ Thuật Trồng Trọt Đột Phá

Lựa chọn kỹ thuật trồng trọt đúng có thể thay đổi toàn bộ cách chúng ta sản xuất lúa gạo. Các biện pháp như gieo sạ sớm và gieo sạ thưa, cấy cách hàng cố định, thửa đất và bón phân theo công thức, và quản lý nước khoa học là những yếu tố quyết định năng suất của lúa gạo. 

Sự Lan Rộng Toàn Cầu

Giống lúa lai 8022 đã không chỉ là niềm tự hào của Trung Quốc mà còn của cả thế giới. Đã có hàng chục quốc gia nhập giống lúa này để canh tác. Diện tích trồng lúa lai giống Trung Quốc tại nước ngoài đã lên tới 8 triệu ha, với sự lan rộng chủ yếu tại Việt Nam, Philippin, Myanmar, Bangladesh, Madagascar, Mozambique, Nigeria… Điều này chứng tỏ sức mạnh và tầm ảnh hưởng của công nghệ nông nghiệp tiên tiến.

Cùng sự phát triển và kết nối giữa khoa học – nông nghiệp giống lúa lai 8022 đã ra đời, nó không chỉ đại diện cho một kỷ lục năng suất mới mà còn thể hiện sức mạnh của sự đổi mới trong ngành nông nghiệp. Bằng cách sử dụng kỹ thuật trồng trọt hiện đại và chăm sóc cẩn thận, chúng ta có thể thấy tăng năng suất là một mục tiêu hoàn toàn có thể đạt được. Nó không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho người nông dân mà còn cung cấp lúa gạo đáng tin cậy cho thế giới.

Nguồn: CLB Hợp tác xã Nông nghiệp Việt Nam