Chuyên mục
CÂU CHUYỆN NÔNG SẢN Nông nghiệp 4.0

Nông dân trẻ chế tạo máy nông nghiệp đa năng

Nông dân trẻ Tạ Đình Huy (SN 1982) chế tạo máy nông nghiệp tích hợp 12 công năng, tiện ích, nhận được hơn 1.000 đơn hàng khắp cả nước.

Rẽ ngang

Sinh ra và lớn lên ở xã Thượng Vực (Chương Mỹ, Hà Nội), học xong phổ thông, Huy không thi đại học mà quyết định học sửa chữa xe máy rồi mở cửa hàng sửa xe đông khách. Dù công việc ổn định nhưng Huy luôn canh cánh trong lòng về nông dân ở quê lao động chân tay vất vả nhưng năng suất lao động thấp.

Năm 2005, Huy bắt tay nghiên cứu chế tạo máy nông nghiệp đa năng. Sau thời gian tìm hiểu qua mạng, xem kỹ các mô hình, trực tiếp ra cánh đồng xem bà con lao động, Huy lên ý tưởng, vẽ mô hình máy phù hợp. Qua nhiều lần thử nghiệm thất bại, anh đã chế tạo thành công chiếc máy có công dụng làm đất, rồi nâng thêm 2 công năng: phun thuốc, bơm nước. Tuy nhiên, chiếc máy đầu tiên vẫn sơ sài, cồng kềnh, hiệu quả thấp, chỉ hoạt động trên mô hình đồng bằng. Năm 2010, Huy quyết định bỏ hẳn nghề sửa chữa xe máy trong lúc đang ăn nên làm ra để lặn lội đến nhiều tỉnh thành tìm hiểu đặc điểm địa hình, lao động của nông dân.

Năm 2014, Huy cho ra mắt chiếc máy nông nghiệp gồm 8 chức năng hoàn chỉnh có thể cày, bừa, xới tơi đất, rạch luống, gieo hạt, làm cỏ, phun thuốc trừ sâu, bơm nước tưới tiêu. “Lúc thử nghiệm thành công, mình vỡ òa trong hạnh phúc, rưng rưng nước mắt. Chiếc máy đã hỗ trợ được phần lớn việc nặng nhọc cho bà con nông dân”, anh nói.

Đăng ký bản quyền, công bố sáng chế máy nông nghiệp “8 trong 1”, anh Huy nổi tiếng cả nước. Sáng chế được đánh giá ưu việt về kỹ thuật và kinh tế. Giá thành một chiếc máy chỉ từ vài triệu đến 13 triệu đồng (tùy vào số lượng công năng), nhưng có năng suất lao động gấp hơn 5 lần sức trâu, hơn 10 lần sức người.

Máy “12 trong 1”

Không bằng lòng với những thành công đạt được, anh Huy tiếp tục đầu tư, nghiên cứu nâng cấp chiếc máy của mình. Mới đây, anh nâng cấp chiếc máy lên “12 trong 1”. Máy được bổ sung 4 công năng: Đào bùn cà phê, đảo phân vi sinh, cấy lúa, di chuyển vật nặng trong vườn. Huy cho biết, cải tiến của anh mang tính đột phá khi có thể áp dụng cả 12 công năng vào những địa hình đa dạng.

“Một phút máy đào bùn cà phê đào được 1,5m, sâu 40cm, rộng 40cm; di chuyển các vật nặng có trọng lượng vài tạ trong vườn một cách dễ dàng. Một người điều khiển máy có thể làm sạch 5 mẫu cỏ trong một buổi sáng, hay phun thuốc sâu cho 1ha chỉ trong 30 phút, giá thành sản xuất chưa tới 20 triệu đồng”, anh nói.

Những chiếc máy nông nghiệp đa năng được chế tạo 4 kiểu dáng chính tùy số lượng các công năng trên máy. Khung máy và các chi tiết, công cụ được làm từ sắt, thép công nghiệp. Kích thước máy chuẩn: Rộng 50cm, dài 120cm, cao 70cm. Tổng trọng lượng khoảng 90kg (lắp ít công năng chỉ khoảng 40-50kg). Thân máy được trang bị động cơ xe máy, bánh răng, bánh lốp, bình xăng, ống xả khí, ghế ngồi, tay điều khiển, trục động cơ. Máy có năng suất gấp 20 lần sức người.

“Ở thân máy trang bị một chiếc trục. Khi cần dùng bộ công cụ công năng nào chỉ việc lắp ráp vào, thay đổi vận tốc trục sẽ chuyển sang công năng khác. Như phun thuốc trừ sâu, chỉ cần lắp bình thuốc, vòi phun vào vận hành. Máy nằm một chỗ, thông qua các vòi phun dài hàng chục mét có thể dễ dàng phun thuốc trên diện rộng”, anh Huy nói.

Anh Huy kể, 3 năm gần đây đã sản xuất hơn 1.000 máy theo đơn hàng của nông dân trên cả nước. Anh nhận được không ít lời mời hợp tác sản xuất từ các công ty cơ khí, nhưng đều từ chối. Về chiếc máy 12 công năng, anh cho biết, đang viết giải pháp và hoàn thiện hồ sơ đăng ký bản quyền.

Ông Đặng Đình Trắc, Phó chủ tịch xã Thượng Vực, cho biết, chiếc máy nông nghiệp “12 trong 1” được đông đảo bà con trong xã mua và sử dụng hiệu quả. “Trong xã có hơn 100 hộ dân mua chiếc máy của Huy phục vụ nông nghiệp”, ông Trắc nói.

Theo Tiền Phong

Chuyên mục
CÂU CHUYỆN NÔNG SẢN Nông nghiệp 4.0

Nông nghiệp công nghệ cao “Made in Israel”

Không phải một đất nước nào bé và non trẻ như Israel lại cống hiến cho ngành nông nghiệp công nghệ cao nhiều như đất nước này.

Mặc cho điều kiện địa lý không phù hợp, Israel là một trong những đất nước phát triển nhất thế giới về nông nghiệp. Israel cũng là đất nước xuất khẩu hàng đầu các mặt hàng tươi sống và là nhà tiên phong trong nền nông nghiệp công nghệ cao.

Việc đảm bảo được nguồn cung cấp thực phẩm đang là một trong những lo ngại hàng đầu của thế giới trong một kỷ nguyên phát triển như hiện nay. Khi những tài nguyên đang dần cạn kiệt, khi dân số vẫn tiếp tục tăng thì những giải pháp làm nông nghiệp và tích trữ thực phẩm trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Không một đất nước nào khác, đặc biệt không phải một đất nước nào bé và non trẻ như Israel lại cống hiến cho ngành nông nghiệp công nghệ cao nhiều như đất nước này. Vậy họ đã làm thế nào để không chỉ phát triển nền kinh tế của mình mà còn giúp nuôi sống thế giới?

Hệ thống tưới nhỏ giọt

Có lẽ không có bước đột phá nào quan trọng bằng việc phát minh ra hệ thống này. Trong khi ý tưởng này đã từng xuất hiện tại nhiều nước khác, nó lại được phát triển bởi kỹ sư Simcha Blass của Israel, người đã phát hiện ra một hệ thống tưới nhỏ giọt, chậm rãi và cân bằng giúp cây phát triển nhanh hơn. Ông đã phát triển hệ thống dẫn tưới theo một tốc độ chậm được tính toán kỹ lưỡng.

Hệ thống tưới nhỏ giọt nhanh chóng được phổ cập tại nhiều nước trên thế giới. Các mẫu mới nhất còn có khả năng tự làm sạch, duy trì tốc độ tưới mặc cho chất lượng nước và áp suất. Một trong những minh chứng rõ ràng nhất đối với thành công và sức ảnh hưởng của công nghệ này tới nền nông nghiệp là việc một hệ thống mang tên Tipa đã giúp 700 gia đình làm nông ở Senegal thu hoạch được 3 vụ/năm thay vì 1 vụ như trước đây, kể cả trên vùng đất khô cằn nhất.

“Kén” lưu trữ hạt

GrainPro Cocoons là công ty Israel đã đưa ra một hệ thống đơn giản và tiết kiệm dành cho các nhà nông ở châu Phi và châu Á để lưu trữ hạt giống một cách hiệu quả nhất. Những chiếc túi to được sáng chế bởi giáo sư Shlomo Navarro có thể ngăn được cả nước và không khí xâm nhập. Chúng được dùng một cách rộng rãi tại nhiều nước phát triển trên thế giới, thậm chí tại cả những nước không có quan hệ tốt đẹp với Israel như Palestine.

Khoảng 50% lượng hạt giống cây trồng bị côn trùng và nấm mốc làm hư hại. Những nhà nông thường có xu hướng giữ hạt giống trong những chiếc túi đơn giản, thô sơ, không có khả năng ngăn ngừa sâu bọ và nấm mốc hoành hành. Những chiếc “kén” đã giải quyết được vấn đề này, đảm bảo được độ tươi của hạt giống, kể cả trong điều kiện khắc nghiệt và ẩm ướt nhất.

Thuốc trừ sâu bằng…động vật

Một công ty mang tên Bio-Bee đã sản xuất ra động vật trừ sâu cho nhà kính và các ruộng ngoài trời. Giám đốc nghiên cứu của công ty, tiến sĩ Shimon Steinberg cho biết, sản phẩm bán chạy nhất của công ty là các chú nhện màu cam dài 2mm, hữu hiệu trong việc tiêu diệt sâu bọ. “Khoảng 60% lượng dâu được sản xuất ở California (Mỹ) từ năm 1990 được chăm sóc bằng phương pháp diệt sâu này”, ông này cho hay.

Tại Israel, các sản phẩm của Bio-Bee đã giúp cho các nhà trồng ớt ngọt giảm thiểu được 75% lượng hoá chất sử dụng. Hiện công ty này đang xuất khẩu 8 loại động vật trừ sâu tới 32 nước khác nhau, từ Nhật Bản tới Chile.

Giống khoai tây tốt hơn

Sau 30 năm nghiên cứu, giáo sư David Levy đã cho ra đời giống khoai tây có thể lớn lên trong điều kiện nóng, khí hậu khô và sử dụng nước mặn để sinh trưởng. Khoai tây là một trong những nguồn cung cấp dinh dưỡng hàng đầu thế giới, nhưng chưa hề được phát triển trong các khu vực cằn cỗi như Trung Đông. Giờ đây các nhà làm nông có thể trồng khoai tây ở mọi nơi.

Sử dụng nước từ không khí

Tal-Ya Water Technologies đã chế tạo ra các khay nhựa để có thể thu được nước từ không khí, giảm thiểu lượng nước sử dụng trong nuôi trồng tới 50%. Những tấm nhựa này được làm từ nhựa tái chế với khả năng lọc tia UV được đặt xung quanh mỗi cây.

Khi nhiệt độ thay đổi về đêm và sương được hình thành, các đường dẫn trên mặt khay sẽ tích tụ nước và đưa thẳng tới rễ cây. Nhà sáng chế Avraham Tamir nói rằng, các tấm nhựa này cũng ngăn tia nắng mặt trời, hạn chế cỏ dại mọc và bảo vệ cây khi nhiệt độ thay đổi. “Các nhà nông có thể sử dụng ít nước hơn, kèm theo đó là ít phân bón hơn”, từ đó sẽ hạn chế được tỷ lệ ô nhiễm nguồn nước trong lòng đất.

Hệ thống bảo vệ đất

Năm 2010, Đại học Do Thái đã phối hợp với Makhteshim Agan, công ty hàng đầu thế giới về việc bảo vệ đất trồng trọt để phát triển một loại thuốc diệt cỏ có tác dụng chậm và các loại thuốc trừ sâu đặc biệt không làm ảnh hưởng tới côn trùng có ích.

Người Israel đã nghiên cứu ra phương pháp dùng các đường dẫn thẳng vào đất, đưa thuốc diệt cỏ tới tận rễ cây, từ đó làm giảm đi liều lượng cần sử dụng. Tương tự, các loại thuốc diệt sâu đặc trị chỉ nhắm vào những loại sâu này mà không làm ảnh hưởng tới các sinh vật khác.

“Nâng cấp” hạt để tăng năng suất

Các nhà khoa học nông nghiệp của Đại học Do thái, Ilan Sela và Haim D. Rabinowitch đã phát triển TraitUP, một công nghệ độc quyền cho phép đưa vào hạt giống những gien đặc trưng mà không làm thay đổi cấu trúc DNA.

Phương pháp này ngay lập tức nhận được kết quả khả quan. Công nghệ này sau đó được chuyển giao cho công ty Morflora của Israel để phát triển và đưa vào áp dụng trong y học. “Việc đưa vào các tính năng có khả năng bộc lộ sau vài ngày thay vì vài năm mang lại một bước đột phá mới trong ngành nông nghiệp công nghệ cao và sẽ ảnh hưởng lớn tới thị trường hạt giống và nông nghiệp của thế giới”, CEO của Morflora nhận định.

Các giải pháp phần mềm đặc thù

AKOL là công ty chuyên sản xuất phần mềm đặc biệt dành riêng cho từng gia đình để giúp các nhà sản xuất theo dõi và tăng sản lượng rau quả của mình. Sử dụng cloud của IMB, dự án của AKOL cho phép các nhà nông trên toàn thế giới khả năng giao tiếp với các chuyên gia Israel. Hàng trăm nghìn hộ có thể nhận được các giải pháp dành riêng cho mình, tham khảo và học tập từ những mô hình khác trên thế giới.

Các ứng dụng của AKOL sẽ tư vấn cho người làm nông thời điểm thích hợp để cấy, tưới nước và thu hoạch, cách lựa chọn hạt giống tốt nhất, cách bảo quản và lưu giữ hạt giống dựa trên khí hậu của từng vùng, cách theo dõi tốc độ phát triển của vật nuôi, cây trồng, kèm theo những hình thức quản lý vĩ mô.

Hệ thống quản lý trang trại bò sữa

SAE Afikim là 1 trong 10 công ty Israel đang đầu tư vào dự án trị giá 500 triệu USD trong 5 năm vào ngành sữa Việt Nam. Hệ thống này sẽ quản lý, theo dõi chế độ của 30,000 con bò tại 12 trang trại, cung cấp 300 triệu lít sữa mỗi năm.

Trung Quốc cũng đã cử các nhóm kỹ sư của mình tới Israel để học tập và nghiên cứu cách tăng sản lượng sữa.

Nuôi cá trong sa mạc

Điều tưởng chừng như chỉ xuất hiện trong phim viễn tưởng lại đang được thực hiện tại Israel. Hệ thống “không xả thải” sử dụng công nghệ GFA của Israel cho phép loại bỏ tất cả các tạp chất có thể gây ảnh hưởng tới môi trường khi nuôi cá, kèm theo đó không cần điện hay một nguồn nước gần kề. Những vi khuẩn đặc biệt sẽ cho phép lọc nước ngay trong bể mà không cần xả thải.

Hiện công nghệ này đang được áp dụng tại các nước tiên tiến. Trang trại lớn nhất sử dụng công nghệ GFA nằm tại New York, Mỹ, và sản xuất hơn 100 tấn cá các loại vào năm 2010./.

Hoàng Việt/Báo VOV

Chuyên mục
CÂU CHUYỆN NÔNG SẢN Nông nghiệp 4.0

Olam và tham vọng 500.000 nhà vườn thông minh vươn khắp thế giới

Tập đoàn Olam đưa công nghệ vào từng bước trong chuỗi cung ứng của hãng.

Vào một ngày nắng cuối tháng 7 ở Lampung, một thị trấn nông nghiệp ở phần phía nam đảo Sumatra của Indonesia, một nhân viên của Olam International bận rộn lòng vòng ở các vườn cacao, thu thập dữ liệu từ các chủ vườn. “Cây cacao của ông đã bao nhiêu tuổi?”, anh hỏi. “Năng suất ca cao bao nhiêu?”. Anh ta rút smartphone của mình ra và gõ các chi tiết khác nhau vào một ứng dụng, bao gồm loại cây, tuổi cây và sản lượng thu hoạch, cùng với tuổi tác và một bức ảnh của một trong các thợ làm vườn.

Mục tiêu 500.000 nhà vườn khắp thế giới

Ứng dụng này là một phần của hệ Thông tin nhà vườn Olam (OFIS), một cơ sở dữ liệu mà tập đoàn nông nghiệp gốc Singapore này hy vọng năm 2020 sẽ đưa vào 500.000 nhà vườn khắp thế giới. Tới nay, hơn 100.000 nhà vườn ở 21 nước đã được đăng ký trong hệ thống. Olam sản xuất và tiếp thị một loạt nhiều loại nông sản và các thành phần thực phẩm, bao gồm các loại hạt, càphê, cacao, bông và dầu cọ. Kinh doanh chủ yếu của công ty là tìm nguồn các sản phẩm từ các nông gia, trong một số trường hợp tự chế biến luôn, cung ứng chúng cho các hãng thực phẩm và đồ uống lớn như Nestlé, Unilevervà PepsiCo.

Trong khi công ty phải đối mặt với những đối thủ mạnh, trong đó có các tập đoàn nông nghiệp Mỹ như Cargill, Louis Dreyfus của Hà Lan và công ty nông doanh toàn cầu gốc Singapore Wilmar International, Olam là nhà cung ứng số một thế giới hạt điều, hạt cacao, hành và tỏi khô. Công ty cũng là nhà trồng hạnh nhân hàng đầu và đứng thứ hai về cung cấp càphê và gạo.

Khi công nghệ đóng một vai trò ngày càng lớn trong cách vận hành các công ty, Olam đang đặt cược vào trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn để phát triển các sáng kiến làm nông thông minh nhắm vào việc gia tăng tính hiệu quả, chất lượng và truy xuất nguồn gốc tại các nhà vườn cung ứng khắp thế giới của hãng.

OFIS là chìa khoá để mở các mục tiêu này. Dữ liệu thu thập được tại hiện trường được đưa vào một nền tảng trực tuyến để cung cấp một cái nhìn toàn diện, “một cửa” (one-stop) về các hoạt động tại từng trang trại. Nền tảng này có thể dùng với nhiều cách, như định vị trí chính xác một trang trại để tính toán khoảng cách đến nguồn nước gần nhất và các nhu yếu canh tác khác.

Bằng cách phân tích dữ liệu hệ thống thu được, Olam có thể đề xuất phương pháp tốt nhất cho từng trang trại, như là lượng phân bón phù hợp để dùng hoặc cây che bóng nào nên trồng để tạo ra môi trường tốt nhất trong sản xuất cacao. Một số các gợi ý này được tự động tạo ra bởi OFIS, trong khi các gợi ý khác được các nhà nông học của Olam đưa ra. Trong một số trường hợp, công ty cung cấp cho các nhà vườn cây giống, phân hoặc các vật liệu để ghép, đổi lấy sản phẩm.

Một cuộc cách mạng nhỏ

Các nông dân canh tác quy mô nhỏ chiếm phần lớn trong số những nhà cung ứng của Olam. Họ chủ yếu tập trung ở Đông Nam Á và châu Phi, nơi các trang trại nhỏ thường có nguồn tài chính hạn hẹp và ít truy cập được thông tin về công nghệ canh tác mới nhất. Đó là một lý do mà Olam, với mạng lưới gồm 4,3 triệu nông dân sản xuất nhỏ, thành lập một đội ngũ số hoá nội bộ vào năm ngoái để khai thác việc sử dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp.

OFIS trực thuộc Olam Direct, một trong những chương trình do đội ngũ chuyên gia của Olam thiết lập. “Chúng tôi đang hợp nhất tất cả hệ thống hiện nay để có thể phát triển một phương tiện số trực tiếp cung cấp thông tin nguồn gốc từ nông dân”, báo Nikkei Asian Review dẫn lời Sunny Verghese, đồng sáng lập kiêm CEO của Olam. OFIS cũng là một phần không thể thiếu trong tính bền vững và các sáng kiến xã hội của công ty. Cơ sở dữ liệu cung cấp thông tin về địa điểm của các cơ sở giáo dục và nơi nào đang được Olam đang đưa ra các chương trình xã hội, cho phép công ty nhận diện những vùng còn thiếu và đưa đến đó các chương trình mới. Olam cho rằng sáng kiến OFIS không chỉ đem lại lợi ích cho các nông dân quy mô nhỏ, mà còn đem lại lợi ích cho chính Olam.

Theo Trần Bích (Thế Giới Tiếp Thị)

Chuyên mục
CÂU CHUYỆN NÔNG SẢN Những sự thật thú vị

Phi hành gia sắp được ăn rau xanh trồng ngoài không gian

Trong khi chúng ta hy vọng một ngày nào đó có thể định cư tại các hành tinh khác, thì các phi hành gia lại luôn cần nhiều nguồn dinh dưỡng hơn là các thực phẩm ăn liền được đóng gói và mang theo từ Trái Đất.

Không chỉ liên quan đến giá trị dinh dưỡng của các sản phẩm tươi sống, NASA còn quan tâm đến việc trồng cây xanh ngoài không gian. Các nhà nghiên cứu cho rằng, phi hành gia cũng sẽ được cải thiện về mặt tâm lý cũng như thể chất từ việc nuôi trồng.

Để giải quyết vấn đề trên, NASA đã hợp tác với các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Arizona thiết kế nhà kính chuyên dụng có thể được triển khai và lắp đặt nhanh chóng trong không gian, có khả năng cung cấp cho phi hành gia một số lượng bền vững các loại rau tươi.

Nguyên mẫu của nhà kính được xây dựng như là “hệ thống sinh học hỗ trợ sự sống” – có khả năng tái chế không khí, chất thải và nước. Khi các phi hành gia hít thở, chúng giải phóng carbon dioxide, trong khi thực vật sử dụng để tạo ra oxy thông qua quang hợp. Nước chảy qua rễ và trở lại một bể chứa, nơi nó được oxy hóa và được tăng cường dưỡng chất trong một chu kỳ tuần hoàn liên tục.

Để tránh bức xạ, các nhà kính có khả năng sẽ được chôn dưới đất, và do đó sẽ cần một nguồn ánh sáng nhân tạo.

Gene Giacomelli, Giám đốc Trung tâm Nông nghiệp Môi trường có kiểm soát tại Đại học Arizona, cho biết: “Chúng tôi đang cố gắng bắt chước những gì các cây xanh sẽ có nếu chúng ở trên Trái Đất và sử dụng các quá trình này để hỗ trợ sự sống. Toàn bộ hệ thống của nhà kính đại diện các hệ thống sinh học trên Trái Đất”.

Một trong những mục tiêu chính của du hành vũ trụ trong tương lai là vận chuyển càng ít hàng hóa càng tốt bằng cách sử dụng những thứ được tìm thấy trên đường đi, một nguyên tắc được gọi là sử dụng tài nguyên tại chỗ.

Rất tốn kém để khởi động một tên lửa do đó việc giảm tải hàng hóa sẽ giúp chi phí rẻ hơn. NASA hy vọng sẽ thu thập được các nguồn cung cho sự sống như là nước từ các vùng ngoài trái đất thay vì phải mang theo nó.

Tiến xa hơn, các nhà nghiên cứu sẽ sử dụng nguyên mẫu nhà kính giống nhau để xác định xem sản phẩm được trồng có thể duy trì khả năng cung cấp cho một nhóm phi hành gia trong thời gian dài hay không.

Theo khampha

Chuyên mục
CÂU CHUYỆN NÔNG SẢN Nông nghiệp 4.0

Ra mắt mô hình trồng trọt ứng dụng công nghệ cao

Dự án Trung tâm hợp tác nông nghiệp thông minh vừa được Tập đoàn FPT (Việt Nam) và Tập đoàn công nghệ thông tin Fujitsu (Nhật Bản) công bố hoàn thành sau hơn một năm xây dựng tại Hà Nội.

Đây là kết quả bước đầu trong khuôn khổ dự án hợp tác nông nghiệp thông minh đã được hai tập đoàn giới thiệu vào tháng 10/2014. Theo đó, FPT phối hợp với Fujitsu trong việc triển khai thử nghiệm công nghệ nông nghiệp thông minh và tiến tới chuyển giao công nghệ này tại Việt Nam.

Với diện tích hơn 400 m2, đặt tại xã Trâu Quỳ, huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội, Trung tâm Hợp tác nông nghiệp thông minh FPT-Fujitsu không chỉ là nơi giới thiệu mô hình kinh doanh (business model) mới của Fujitsu có khả năng liên kết mọi ngành nghề, mọi loại hình doanh nghiệp, tổ chức trong xã hội, mà còn là nơi ứng dụng toàn bộ những kỹ thuật tối tân, những kiến thức và bí quyết dành cho lĩnh vực nông nghiệp mà Fujitsu đã đúc rút được từ trước đến nay.

Hai mô hình sản xuất “Nhà kính – Green house” và “Nhà máy rau – Vegetable factory” được vận hành để trồng thử nghiệm và giới thiệu những loại cà chua, rau củ có giá trị gia tăng cao.

Mô hình “Nhà kính” là dịch vụ dành cho nhà sản xuất nông nghiệp, được trang bị hệ thống cảm biến sẽ thu thập mọi thông tin về môi trường (nhiệt độ, độ ẩm, CO2, lượng ánh sáng, lượng mưa, hướng gió, tốc độ gió v.v…) theo thời gian thực, từ đó tự động điều khiển mành che, cửa sổ, quạt… Nhờ vào hệ thống thiết bị hiện đại cũng như áp dụng phương pháp trồng trọt tiên tiến tại Nhật Bản, mô hình sẽ tạo ra các sản phẩm cà chua cỡ vừa, có hàm lượng dinh dưỡng và độ ngọt tự nhiên rất cao.

Mô hình “Nhà máy rau”, sẽ áp dụng phương thức trồng trọt hoàn toàn khép kín. Tại đây, hệ thống cảm biến sẽ thu thập mọi thông tin về môi trường của dung dịch dinh dưỡng, tốc độ truyền điện… từ đó có những điều chỉnh phù hợp với điều kiện phát triển của các loại rau quả.

Hai tập đoàn FPT và Fujitsu kỳ vọng Trung tâm hợp tác sản xuất nông nghiệp thông minh sẽ là địa chỉ để các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân nhận chuyển giao công nghệ để cắt giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng và năng suất của nông sản Việt Nam.

Nguồn: nangluongsachvietnam.vn

Chuyên mục
CÂU CHUYỆN NÔNG SẢN Nông nghiệp 4.0

Campuchia áp dụng công nghệ nano siêu hiện đại vào nông nghiệp

GroGenesis, một công ty công nghệ nông nghiệp toàn cầu, hồi tuần trước đã công bố việc ký kết chính thức một thoả thuận phân phối với công ty Curewel International tại Phnom Penh.

Thoả thuận sẽ cho phép Curewel International phân phối sản phẩm AgraBurst PRO ở Campuchia, Lào, Sri Lanka và Việt Nam.

Sandeep Majumdar, chủ tịch và giám đốc điều hành Curewel International, cho biết công ty ông hài lòng đối tác với GroGenesis phân phối AgraBurst PRO trong vùng. “Tôi có một niềm đam mê thực sự trong việc tạo ra sự khác biệt đáng kể cho đất nước tôi và cho vùng Đông Nam Á, nơi mà nhiều người dân đeo đuổi nghề nông để mưu sinh, có mức thu nhập đủ mua nhu yếu phẩm cũng như các sản phẩm tiêu dùng theo ý thích”, ông nói. “Bất kỳ sự cải thiện nào về lợi tức đầu tư đều chảy vào nền kinh tế quốc gia. Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể tạo ra một tác động quan trọng về nông nghiệp khi đưa AgraBurst PRO đến nông dân và công ty trong vùng”.

AgraBurst PRO là chất gì?

AgraBurst PRO là một chất hoạt động bề mặt dạng nano, phổ rộng, không GMO, hữu cơ, giúp tăng cường khả năng cây trồng sử dụng các dưỡng chất trong phân bón; giảm sử dụng phân. Sản phẩm cải thiện sức sống tự nhiên của các loại cây trồng. Sản phẩm kích thích mạnh mẽ dưỡng chất và nước cây trồng hấp thu.

Giải pháp là một chiết xuất từ thực vật hữu cơ, không độc, không chứa chất gây ung thư, dễ phân huỷ về mặt sinh học và an toàn khi sử dụng. Ứng dụng của sản phẩm này là làm tăng khả năng tự nhiên để cây trồng hấp thu dưỡng chất qua tán lá và phát triển bộ rễ để hấp thu từ đất. AgraBurst PRO tạo điều kiện vận chuyển nhanh chất dinh dưỡng ở cấp độ tế bào, bằng cách cải thiện quang hợp và tăng cường hấp thu các chất chính từ đất để tăng trưởng: nước, carbohydrate các loại, và khoáng.

Sản phẩm này là một dẫn xuất tăng cường hoàn toàn tự nhiên giúp cho cây thẩm thấu trực tiếp nước và dưỡng chất qua bộ lá. Cơ chế hoạt động này tiết kiệm chi phí từ việc ít dùng phân bón hơn. AgraBurst PRO là một công thức tạo ra sự trao đổi ion chuyển các dưỡng chất của NPK và các nguyên tố vi lượng, bằng cách làm giảm độ căng và độ nhớt bề mặt trong chất carbohydrate thực vật, tạo ra một con đường tự nhiên để tiếp dẫn dưỡng chất các carbohydrate qua bộ lá, cành và rễ với năng lượng tối thiểu.

Sản phẩm làm cho những đặc tính hoạt động bề mặt tự nhiên của bộ lá tăng lên, cho phép hấp thụ nhanh hơn và hiệu quả hơn ánh sáng, nước và dưỡng chất ở cấp độ tế bào. Trong hợp chất cũng có một chất diệt cỏ tự nhiên.

Việc tối ưu hoá độ hấp thụ của cây trồng còn giúp kiểm soát sâu bệnh và cỏ dại, nông dân có thể tối thiểu hoá chi phí đầu vào, giảm nguy cơ độc hại cho nhân công và cung cấp thực phẩm lành mạnh cho các gia đình nông dân và người tiêu dùng.

Đẩy nhanh tăng trưởng bằng nông nghiệp

Tại một hội nghị về phân phối toàn cầu ở Phnom Penh, Campuchia, Richard Kamolvathin, CEO của GroGenesis, đã có bài phát biểu “Đẩy nhanh tăng trưởng GDP qua nông nghiệp” trước 150 cử toạ. Đó là những nhà phân phối, tiểu phân phối từ chín nước Nam Á – Bangladesh, Campuchia, Ấn Độ, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Sri Lanka, và Việt Nam, hai nước Nam Mỹ – Colombia và Peru, và một nhà phân phối từ Thuỵ Sĩ tham gia diễn đàn.

Theo ông, những nước nông nghiệp có thể tạo ra sự đóng góp đáng kể cho GDP, khi có khả năng tối ưu hoá hiệu quả và khuyến khích trồng trọt hữu cơ.

Kamolvathin nói: “Tất cả các nước đều có các thách thức trong việc tăng GDP. Nhưng những nước trọng nông nghiệp có một cơ hội duy nhất để đẩy mạnh đáng kể tốc độ tăng GDP, bằng cách giúp cho các nông dân trở thành những nhà quản lý đất đai giỏi, đồng thời tăng năng suất cây trồng của họ với chi phí đầu vào hiệu quả. Cải thiện đời sống của nông dân bằng cách ứng dụng việc sử dụng các chất bón cây trồng an toàn, giúp tăng thu nhập cho các nông hộ là một nhiệm vụ lõi của GroGenesis”.

GroGenesis là một công ty Mỹ tại Sioux Falls, bang Dakota Nam. Sản phẩm lõi của công ty là AgraBurst PRO.

AgraBurst PRO tăng năng suất đáng kể khi thử nghiệm trên đồng. Sản lượng tăng từ 15 – 40% tuỳ theo cây trồng và đất đai.Thử nghiệm trên đồng xác nhận:

– Thời gian nảy mầm thực vật ngắn hơn.

– Gia tăng sức tăng trưởng cây trồng.

– Cải thiện bệnh và kháng hạn.

– Năng suất cao hơn.

Phù hợp cho bất kỳ thổ nhưỡng, khu vực và loại cây trồng nào.

Theo Khởi Thức (Thế Giới Tiếp Thị)

Chuyên mục
Nông nghiệp 4.0

Thử nghiệm phương pháp thủy canh bằng nước thải ở Đức

Các nhà nghiên cứu Đức đang thử nghiệm xử lý và tận dụng nước thải cho phương pháp thủy canh để tiết kiệm tối ưu nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp.

Bộ Giáo dục và Nghiên cứu của Cộng hòa Liên bang Đức (BMBF) hiện đang hỗ trợ dự án “HypoWave” – sử dụng nước thải đã xử lý trong canh tác thủy canh và phát triển dự án này thành một phương thức canh tác tiết kiệm nước phổ biến trong sản xuất nông nghiệp.

Trong phương pháp thủy canh, cây không mọc lên từ đất mà hấp thụ chất dinh dưỡng có trong nước. Rất nhiều công ty sản xuất nông nghiệp đã ứng dụng kỹ thuật thủy canh vào sản xuất bằng cách hòa chất dinh dưỡng vào nước sạch để nuôi cây trồng. Thực ra người ta có thể thực hiện thủy canh cho cây trồng bằng nước thải vì trong nước thải chứa nhiều chất dinh dưỡng hữu ích với cây trồng, qua đó tiết kiệm được một lượng đáng kể nước sinh hoạt.

“Điều quan trọng là phải xử lý chất thải để tạo ra được lượng dưỡng chất tối ưu trong nước thải để nuôi dưỡng cây trồng”, người đứng đầu dự án, GS. Thomas Dockhorn ở Viện Kỹ thuật môi trường, Đại học Tổng hợp kỹ thuật Braunschweig cho biết. Điều đó có nghĩa là phải khử kim loại nặng, các mầm bệnh và các chất độc hại khác trong nước thải trước khi đưa vào sử dụng cho phương pháp thủy canh.

Nhóm nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm ngay gần hệ thống xử lý nước thải ở thị trấn Hattorf, bang Niedersachsen, Đức. Họ dùng một hệ thống khử chất độc hại trong nước thải và sau đó dùng nước này để cung cấp cho hệ thống sản xuất theo phương pháp thủy canh.

Ngoài ra, các nhà khoa học còn áp dụng một biện pháp kỹ thuật rất quan trong để giữ nước cho cây. Đó là dùng một màng mỏng để thu gom lượng nước bị bốc hơi và dẫn về bể thu gom nước để tái sử dụng. Biện pháp kỹ thuật này rất có ý nghĩa đối với những vùng thường xuyên bị khô hạn.

Tuy nhiên, một vấn đề tiếp theo mà các nhà khoa học phải tiếp tục nghiên cứu, đó là, liệu các cơ sở sản xuất nông sản bằng phương pháp thủy canh nước thải như thế này có thể sản xuất thực phẩm cao cấp và có đạt hiệu quả kinh tế hay không. Do đó, bước tiếp theo mà các nhà nghiên cứu phải làm sẽ là xúc tiến xác định tiềm năng và khả năng tiếp cận thị trường của phương pháp canh tác này thông qua các điều tra thăm dò ở các vùng khác nhau.

Theo tiasang

Chuyên mục
CÂU CHUYỆN NÔNG SẢN Những sự thật thú vị

Trang trại trong nhà cho hơn 80 tấn rau sạch mỗi năm

Một công ty Nhật Bản sử dụng công nghệ trồng rau trong nhà, cho sản lượng hơn 80 tấn rau sạch mỗi năm.

Công ty Nhật Bản Panasonic bắt đầu trồng rau xanh trong một nhà kho ở Singapore từ năm 2014 để bán cho các cửa hàng thực phẩm và nhà hàng địa phương, theo Business Insider.

Khi đó, trang trại rộng 248m2 chỉ cho 3,6 tấn rau mỗi năm. Tới nay, diện tích và sản lượng của trang trại đã tăng gấp 4 lần, Alfred Tham, trợ lý giám đốc Phòng kinh doanh nông nghiệp của Panasonic, cho biết.

Mọi loại rau xanh của Panasonic được trồng quanh năm trong nhà, dùng đèn LED thay ánh sáng mặt trời. Các giá trồng rau được xếp chồng lên nhau tới tận trần nhà để cho sản lượng cao hơn trong không gian hạn chế.

20 công nhân làm việc tại trang trại đeo mũ trùm đầu, mặt nạ, găng tay và trang phục bảo hộ trước khi làm việc để tránh nguy cơ làm ô nhiễm khu trồng rau.

Trang trại sản xuất 81 tấn rau xanh mỗi năm, chiếm 0,015% tổng lượng rau trồng ở Singapore. Panasonic dự kiến nâng con số này lên 5%.

Hiện tại, nhà kho đang gieo trồng 40 loại rau, bao gồm rau mầm củ cải đỏ, củ cải trắng, xà lách rocket, cải Nhật, cải cầu vồng, xà lách romaine. Vào tháng 3/2017, trang trại sẽ bắt đầu trồng thêm 30 loại rau khác.

Để trồng rau xanh, công nhân Panasonic gieo hạt giống lên các giá trồng rau. Không giống nhiều trang trại thẳng đứng khác, trang trại của Panasonic trồng rau xanh trên đất.

Mọi loại rau mọc dưới ngọn đèn LED thay vì ánh nắng Mặt Trời. Những bóng đèn do một công ty địa phương cung cấp và tiêu tốn ít năng lượng hơn bóng đèn thường.

Bóng đèn LED chiếu sáng thường xuyên thúc đẩy cây trồng phát triển nhanh chóng. Nông dân cũng kiểm soát thời tiết bên trong nhà kho, bao gồm lượng oxy, độ pH và nhiệt độ.

Khi hạt giống bắt đầu nảy mầm, nông dân chuyển cây trồng vào những chậu nhỏ. Những vòi phun nhỏ cung cấp nước giàu chất dinh dưỡng cho cây trồng.

Mục tiêu của trang trại là tăng sản lượng rau trồng tại Singapore, nơi phải nhập khẩu hơn 90% thực phẩm. Quốc đảo này rất khan hiếm đất trồng trọt, vì vậy trồng rau trong nhà có thể trở thành giải pháp khả thi để sản xuất nhiều rau xanh hơn

Dự án nông nghiệp trong nhà của Panasonic thuộc ban Giải pháp nhà máy, nơi tạo ra những cỗ máy và hệ thống công nghiệp.

“Chúng tôi tiên đoán ngành kinh doanh này rất có tiềm năng trong điều kiện thiếu đất nông nghiệp trên toàn cầu, dân số gia tăng, biến đổi khí hậu, cùng nhu cầu về nguồn cung cấp thực phẩm chất lượng cao và ổn định”, Tham cho biết.

Theo VnExpress

Chuyên mục
CÂU CHUYỆN NÔNG SẢN Nông nghiệp 4.0

Ứng dụng CNTT vào nông nghiệp: Nguồn lợi bền vững cho doanh nghiệp

Việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào nông nghiệp (NN) được xem là đem lại những hiệu quả thiết thực và ngày càng thể hiện được ưu thế vượt trội so với sản xuất NN truyền thống. 

Qua kinh nghiệm của Israel, Nhật Bản và thực tế tại Việt Nam, có thể thấy việc phát triển NN ứng dụng công nghệ cao (CNC) ở nước ta còn chậm do nhiều bất cập.

Điều kiện tiên quyết

Mô hình áp dụng CNTT vào NN được nhắc nhiều trên thế giới, nhất là ở Isarel và Nhật Bản – những quốc gia đã làm nên điều kỳ diệu về nền NN xanh CNC.

Có diện tích rất nhỏ, trên 20.000km2, nhưng Israel lại được mệnh danh là “thung lũng Silicon” của thế giới trong lĩnh vực NN và công nghệ nước. Chỉ với 2,5% dân số làm NN nhưng Israel là một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, khoảng trên 3 tỷ USD. Nếu như năm 1955, mỗi nông dân Israel nuôi được trung bình 15 người thì đến nay mỗi nông dân có thể nuôi được hơn 150 người khác.

Tính riêng trong lĩnh vực trồng trọt, quốc gia có 2/3 diện tích lãnh thổ là sa mạc này đã có năng suất tăng vượt trội nhờ ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt. Hầu như toàn bộ các khâu từ canh tác đến thu hoạch, bảo quản, tiêu thụ hiện nay ở Israel đều được áp dụng CNTT.

Theo đó, một chiếc máy tính bảng hay điện thoại thông minh có kết nối mạng, các thiết bị cảm ứng và phần mềm điều khiển tự động từ xa sẽ giúp nông dân biết vườn cây nào cần bón phân gì, số lượng bao nhiêu, diện tích nào cần tưới nước, tưới bao nhiêu là vừa. Căn cứ vào các dữ liệu đó, máy tính sẽ cho nông dân biết cần phải điều chỉnh các chỉ tiêu nào và mọi hoạt động đều được điều khiển thông qua các thiết bị thông minh.

Còn Nhật Bản, với lợi thế phát triển về công nghiệp điện tử, Nhật Bản đã áp dụng CNTT trong rất nhiều công đoạn sản xuất NN. Đơn cử như Hệ thống định vị toàn cầu, lắp đặt các thiết bị GPS để tiếp nhận thông tin truyền qua vệ tinh của các máy kéo, máy liên hợp và máy móc thiết bị NN khác, đã giúp hoạt động canh tác NN được vận hành chính xác. Mạng lưới cảm biến được sử dụng để đo nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, carbon dioxide hay những yếu tố cần thiết giúp phát triển tốt nhất một số cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng và khí hậu.

Nhằm giúp người nông dân có thể tiếp thị sản phẩm một cách chủ động, Nhật Bản cũng xây dựng hệ thống điều hành thương mại nông sản điện tử giúp cho việc phân phối nông sản, giám sát và phân tích thị trường được nhanh chóng, chính xác và khoa học.

Việc ứng dụng CNTT là điều kiện tiên quyết để quản lý hiệu quả tất cả các quy trình, nó chính là chìa khóa cho chính phủ trong việc nắm bắt tình hình NN của đất nước, xác định được bao nhiêu trong số cây trồng đó là cần thiết, sản lượng tại các khu vực và hợp tác xã NN như thế nào và sau đó mới quyết định loại và khối lượng tối ưu để phát triển.

Ứng dụng NN CNC tại Việt Nam

Đến nay, nhiều mô hình, giải pháp ứng dụng CNTT trong ngành NN Việt Nam đã được triển khai và đem lại hiệu quả tích cực như: sàn giao dịch nông sản, hệ thống thông tin NN, giải pháp ứng dụng CNTT trong chăn nuôi và hệ thống giám sát môi trường NN.

Hiện cả nước có 3 khu NN ứng dụng CNC tại các tỉnh: Hậu Giang, Phú Yên và Bạc Liêu. Bộ NN và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) cũng thẩm định và công nhận 25 doanh nghiệp (DN) NN ứng dụng CNC. Tính đến tháng 3/2017, có 15 dự án ứng dụng CNC trong lĩnh vực NN đang được Nhà nước hỗ trợ với số vốn 156,3 tỷ đồng. Tính từ tháng 6/2016 – 2/2017, cả nước đã có 25 dự án đầu tư vào sản xuất NN ứng dụng CNC với số vốn 21.200 tỷ đồng.

Tuy nhiên, tại hội thảo “Phát triển NN chất lượng, hiệu quả” trong khuôn khổ Diễn đàn kinh tế Việt Nam 2017 do Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Bộ NN&PTNT tổ chức cuối tháng 6/2017, bà Nguyễn Thị Thanh Thủy – Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và Môi trường, Bộ NN&PTNT cho biết, việc ứng dụng CNC trong NN hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, bất cập.

Mặc dù ứng dụng CNC giải quyết phần nào những khó khăn trong sản xuất NN, người nông dân vẫn còn lo ngại đầu tư công nghệ cao vào sản xuất NN. Họ sợ rủi ro trong quá trình sản xuất, cũng như không phải người nông dân nào cũng có điều kiện đầu tư công nghệ cao vào sản xuất, vì giá các sản phẩm công nghệ nhập nội rất cao. Do đó, rất cần những sản phẩm công nghệ của người Việt, phù hợp cho người Việt. Các nhà khoa học trong nước cần tạo ra những sản phẩm công nghệ ứng dụng trong NN với giá thành rẻ để nông dân ứng dụng CNC một cách rộng rãi.

Mặt khác, vẫn còn tồn tại một bất cập, đó là trong thời đại công nghệ như hiện nay, người sản xuất NN lại không biết nhiều về công nghệ, trong khi người làm công nghệ thông tin lại không biết nhiều về NN. Hai bên không gặp nhau thì không bao giờ đẩy được năng suất nông sản lên được. Chính vậy, các nhà khoa học trong nước không chỉ tạo ra sản phẩm công nghệ phục vụ sản xuất NN ngay tại trong nước với giá thành rẻ, mà cần đơn giản hóa sản phẩm để người nông dân dễ sử dụng.

Cần hướng đi mới

Trước đây, nói tới NN CNC là chỉ nói tới dáng dấp của nhà kính, nhà lưới, là tự động hóa. Tuy nhiên, hiện nay, khái niệm ấy ngày càng rộng, bao gồm cả sự kết hợp của nhiều lĩnh vực như sinh học, vật lý, viễn thám, kỹ thuật nanô. Vì vậy phát triển NN CNC tại nước ta giai đoạn tới cũng phải có cách tiếp cận mới.

Cũng tại hội thảo “Phát triển NN chất lượng, hiệu quả”, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Kinh tế Trung ương Cao Đức Phát đánh giá, thời gian qua, nhiều chính sách dành cho NN CNC còn nhiều bất cập, điều đó có thể do chính sách chưa ổn hoặc do việc triển khai chưa tốt. Bởi vậy, theo ông Cao Đức Phát, thời gian tới, để nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền NN, các Bộ, ngành cần rà soát, sửa đổi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ứng dụng CNC trong NN, tạo điều kiện thuận lợi cho DN và người dân tiếp cận chính sách, đồng thời sửa đổi Luật Đất đai, tháo gỡ khó khăn để hình thành vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn.

Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Thanh Thủy cho rằng, cần khuyến khích các DN thành lập trung tâm, viện nghiên cứu, tham gia thực hiện các nhiệm vụ có hỗ trợ từ ngân sách nhà nước như các đơn vị nghiên cứu độc lập; hình thành mối liên kết chặt chẽ giữa DN liên kết với các tổ chức công nghệ để thúc đẩy quá trình nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ.

“Đặc biệt, yếu tố quan trọng nhất để phát triển NN CNC là thị trường. Bên cạnh đó cần tăng cường đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại để giúp DN tiếp cận với thị trường, định hướng sản xuất DN cho phù hợp với nhu cầu thị trường”, bà Thủy nhấn mạnh.

Có thể nói, ứng dụng công nghệ hiện đại sẽ giúp tháo gỡ triệt để những hạn chế của tình trạng sản xuất manh mún, giá trị gia tăng thấp, chất lượng và sản lượng không đồng đều của ngành NN nước ta hiện nay. Hạ tầng mạng của nước ta cơ bản phủ sóng các vùng miền – điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ. Nông dân tại các vùng chuyên canh lớn cũng có ý thức ứng dụng công nghệ, nhất là CNTT vào quá trình canh tác, chăn nuôi.

Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ vào sản xuất NN có thể sẽ không đem lại nguồn lợi nhanh chóng như một số lĩnh vực khác, nhưng là nguồn lợi bền vững và có tính lan tỏa cao, DN nên nắm bắt cơ hội này.

Chuyên mục
Đặc sản ngon RÌ VIU

Vải thiều để gần 3 tháng vẫn tươi ngon

Công nghệ CAS bảo quản vải thiều của Nhật Bản nếu được các doanh nghiệp áp dụng rộng rãi thì người tiêu dùng có thể thưởng thức loại quả này quanh năm, không còn phụ thuộc vào mùa vụ.

Quả vải đông lạnh sau khi để ra môi trường bình thường, lớp đá mỏng bọc quanh bắt đầu tan dần, lộ ra lớp vỏ tươi sáng. Khi bóc, vỏ vải vẫn có độ giòn róc như quả tươi hái từ trên cây.

Vải thiều được lấy ở huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) từ tháng 6, dù trải qua gần 3 tháng bảo quản đông lạnh nhưng cùi vải vẫn giữ được độ dẻo, bóc róc tay, mọng nước. Khi ăn, cùi vải vẫn có độ ngọt sắc, thơm như khi ăn quả tươi.

Dự án nghiên cứu quy trình bảo quản vải thiều bằng công nghệ CAS do Viện nghiên cứu Phát triển vùng, Bộ Khoa học – Công nghệ trực tiếp triển kha
Một lãnh đạo của Viện nghiên cứu Phát triển vùng cho biết, các nhà khoa học Việt Nam đã bước đầu thành công trong xây dựng hoàn thiện quy trình bảo quản vải thiều bằng công nghệ do Nhật Bản chuyển giao, hỗ trợ nghiên cứu. Năm 2014, quy trình này đã bảo quản thành công 10 tấn vải thiều để xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.

Trong mùa vải năm 2015, Viện nghiên cứu Phát triển vùng đã thử nghiệm bảo quản 20 tấn vải thiều tươi. Ngoài xuất khẩu sang Nhật Bản, một phần số vải bảo quản thành công được gửi đi chào hàng tại thị trường Đức, Pháp và một số quốc gia châu Âu.

Cũng theo vị lãnh đạo trên, ngoài mục tiêu xuất khẩu, công nghệ CAS sẽ là giải pháp kéo dài mùa vụ tiêu thụ vải thiều ở thị trường trong nước. Dự kiến trong năm tới, công nghệ này sẽ được chuyển giao cho một số doanh nghiệp để ứng dụng trên diện rộng.
Giải thích vì sao quả vải vẫn tươi ngon, lãnh đạo Viện nghiên cứu Phát triển vùng, cho biết vải được bảo quản bằng công nghệ đông lạnh tươi. Khi chiếu xạ ở một môi trường nhất định, các tế bào quả vải được bảo vệ hoàn toàn. Sau khi thời gian rã đông, nghĩa là để ra ngoài điều kiện môi trường không khí bình thường, quả vải “hồi sinh” về màu sắc, chất lượng gần như vải tươi.

Qua thống kê, sản lượng vải thiều của Bắc Giang năm 2015 đạt 195.000 tấn, có tổng doanh thu khoảng 2.900 tỉ đồng. Giá bán bình quân vải thiều năm nay đạt mức giá 15.000 đồng/kg, cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây.

Chủ tịch UBND huyện Lục Ngạn, ông Trần Quang Tấn cho biết, bình quân một kg vải tăng lên 1.000 đồng, người dân trồng vải ở địa phương này sẽ có thêm 118 tỉ đồng. Theo ông Tấn, nếu công nghệ CAS được ứng dụng rộng rãi trong bảo quản vải thiều thì giá trị quả vải sẽ tăng cao. Cũng theo đánh giá của nhiều nhà khoa học, đại diện các doanh nghiệp, trong tương lai nếu bảo quản được trong vòng 40 ngày, vải thiều Việt Nam sẽ dễ dàng tiếp cận ở thị trường châu Âu.

Phan Hậu (Báo Thanh Niên)