Chuyên mục
CÂU CHUYỆN NÔNG SẢN NÔNG NGHIỆP 360 Nông nghiệp 4.0

Mô hình sản xuất đất sạch kết hợp trồng cây cảnh

Anh Nguyễn Trung Duy (sinh năm 1979) ở xã Phước An, huyện Krông Pắc (Đắk Lắk) đã nghiên cứu áp dụng mô hình lấy vỏ cà phê, trấu, mụn xơ dừa và các phế phẩm nông nghiệp làm đất sạch, phục vụ canh tác cây trồng.

Bên cạnh đó, anh còn trồng rất nhiều cây cảnh có giá trị. Anh là người tiên phong ở địa phương làm giàu từ mô hình kết hợp này, với mức thu nhập mỗi năm 700 triệu đồng.

Mô hình sản xuất đất sạch

Đầu năm 2016, được sự giúp đỡ của Trạm Khuyến nông huyện Krông Pắc, anh Duy đã nghiên cứu làm đất sạch từ các phụ phẩm nông nghiệp, không tốn nhiều chi phí, giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đồng thời còn tạo ra nguồn phân bón giá rẻ có thể thay thế từ 30-70% phân hoá học.

Theo anh, cứ 10 tấn vỏ cà phê thì thuê khoảng 8 công lao động từ khi ủ đến khi thành đất sạch, thời gian ủ 50 – 60 ngày. Trong khi đó, vỏ cà phê không được ủ thì phải mất gần 2 năm mới có thể đem bón cho cây.

Từ việc ứng dụng quy trình làm đất sạch, anh đã thu mua vỏ cà phê, cùi ngô, trấu trong huyện và mụn xơ dừa ở Bình Định, các tỉnh miền Tây để chế biến. Hiện anh đã thành lập Công ty TNHH Sản xuất và Dịch vụ đất sạch Duy Nhất. Trung bình mỗi năm sản xuất khoảng 100 tấn, giá bán 2,5 – 3 triệu đồng/tấn. Khách hàng chủ yếu ở Đắk Nông, Gia Lai…, tạo công ăn việc làm cho 10 lao động, với mức thu nhập mỗi người từ 5 – 7 triệu đồng/người/tháng.

Mô hình sản xuất đất sạch kết hợp trồng cây cảnh

Ông Y Thim Niê (ở Buôn Pan, xã Ea Yông) trồng hơn 2 ha cà phê, cho biết: “Từ khi sử dụng đất sạch của anh Duy, sản lượng cà phê nhân tăng lên đáng kể”.

Để biến những phụ phẩm nông nghiệp thành đất sạch, anh Duy còn sử dụng cả chất thải từ chăn nuôi, như phân heo, bò, dê, gà… ủ với men Trichoderma và than sinh học (được đốt từ trấu, lá cây, rác). Đối với những hộ chăn nuôi nhiều, anh đến tận nhà để ủ, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường xung quanh.

Ngoài sản xuất đất sạch, anh Duy còn mở rộng vườn cây cảnh lên 1.000m2 với nhiều loại cây cảnh bon sai các loại được ưa chuộng như linh sam, hải châu… có giá trị kinh tế từ 3 triệu đồng lên đến trên 150 triệu đồng. Mỗi năm, từ cây cảnh sau khi trừ chi phí gia đình anh có thu nhập trên 200 triệu đồng/năm.

Nguồn: TIẾN DŨNG

(Trường THPT Thực hành Cao Nguyên – Trường Đại học Tây Nguyên)

Chuyên mục
CÂU CHUYỆN NÔNG SẢN Nông nghiệp 4.0

Trồng dưa lưới bằng công nghệ cao

Sản xuất và tiêu thụ rau quả trên thế giới và tại Việt Nam không chỉ quan trọng về mặt kinh tế mà còn là vấn đề sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người tiêu dùng. Đặc biệt những loại rau ăn quả mang lại giá trị kinh tế to lớn và thúc đẩy các hướng nghiên cứu mà dưa lưới là một trong số đó. 

Dưa lưới thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae) là rau ăn quả có thời gian sinh trưởng ngắn, trồng được nhiều vụ trong năm với năng suất khá cao; có nguồn gốc từ Ấn Độ và châu Phi; Ai Cập là nơi trồng đầu tiên, sau đó là Hy Lạp, La Mã. Hiện nay dưa lưới được trồng khắp nơi trên thế giới, chủ yếu bán tươi và được xem là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Không những thế, thành phần của dưa lưới có chứa chất chống oxy hóa dạng polyphenol, có khả năng phòng chống ung thư và tăng cường hệ miễn dịch, nhiều chất xơ nên có tác dụng nhuận trường, chống táo bón và là nguồn phong phú beta-carotene, acid folic, kali và vitamin C, A giúp điều hòa huyết áp, ngừa sỏi thận, lão hóa xương, …
Ở nước ta, hiện có nhiều loại dưa lưới. Ngoài các giống dưa lưới truyền thống được trồng từ lâu như dưa trắng Hà Nội, dưa mật Bắc Ninh, dưa vàng Hải Dương trái nhỏ, thơm, ngọt, thì những năm gần đây, Công ty Giống cây trồng Nông Hữu đã đưa vào sản xuất một số giống lai F1 nhập nội cho năng suất cao (35 tấn/ha), thơm ngon, độ đường (Brix) cao từ 15-18 độ, quả to, màu sắc phong phú, chống chịu một số bệnh nứt dây và thối vi khuẩn. Chu Phấn và Taki là hai giống đã được khảo nghiệm và đánh giá phù hợp với điều kiện nhà màng. Taki có độ Brix cao, có khả năng kháng bệnh tốt hơn nên được khuyến khích trồng nhiều hơn. Một số giống dưa lưới được lai tạo phổ biến như Dưa Vân là dưa ưu thế lai F1 do Công ty Vimorint Cộng hòa Pháp lai tạo và sản xuất; dưa lưới Hami (Cucumis melo var. saccharinus) có nguồn gốc từ Tân Cương, Trung Quốc…

                           Một số giống dưa lưới phổ biến tại Việt Nam 

Công nghệ trồng dưa lưới của Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP.HCM

Dựa trên những kết quả nghiên cứu của thế giới về chế độ dinh dưỡng, kỹ thuật bấm ngọn, chế độ tưới, mật độ trồng, v.v… Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển nông nghiệp Công nghệ cao (thuộc AHTP – Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP.HCM) đã có những nghiên cứu đưa ra quy trình canh tác, đồng thời áp dụng quy trình VietGAP để sản xuất dưa lưới sạch, năng suất gấp 3 thông thường và được các hệ thống siêu thị ưa chuộng. Quy trình trồng dưa lưới tại AHTP nghiên cứu trong nhà màng trên giá thể, áp dụng phương pháp tưới nhỏ giọt đạt hiệu quả cao và sẵn sàng chuyển giao với các khâu căn bản là giống, cây con, giá thể, trồng và chăm sóc.

Chuẩn bị cây con và giá thể

Sử dụng khay ươm cây thường bằng vật liệu xốp (50 lỗ/khay) để gieo hạt. Giá thể gieo hạt là mụn xơ dừa đã được xử lý chất chát (tanin), phân hữu cơ (trùn quế hoặc phân chuồng) đã được xử lý bằng tricoderma và tro trấu phối trộn theo tỷ lệ tương ứng là 70% + 20% + 10%, rồi cho vào đầy lỗ mặt khay và tiến hành gieo 1 hạt/lỗ. Sau đó tưới nước giữ ẩm hằng ngày, khay ươm được đặt trong nhà ươm có che mưa và lưới chắn côn trùng. Khi cây xuất hiện lá thật thứ nhất thì phun phân bón lá Growmore 30-10-10, nồng độ 1 g/lít nước.
Cách vào giá thể trong khay xốp gieo hạt.              Hạt dưa lưới sau gieo 5 ngày.
 Cách vào giá thể trong khay xốp gieo hạt.                         Hạt dưa lưới sau gieo 5 ngày.

              

                                                Mụn xơ dừa và hồ chứa để xử lý.

Dạng trồng bằng túi nilon trắng kích thước 40 cm x 40 cm, đục lỗ ở đáy túi.              

Trồng và chăm sóc

Nên trồng vào buổi chiều mát, đặt cây nhẹ nhàng để tránh tổn thương cây con, không nén quá chặt, trồng xong phải tưới nước ngay. Mật độ và khoảng cách trồng vào mùa khô là hàng kép kiểu nanh sấu, đạt 2.500-2.700 cây/1.000 m2; mùa mưa trồng hàng kép đạt 2.200 – 2.500 cây/1000 m2.

          

Dạng trồng bằng túi nilon trắng                                   Dạng trồng luống có kích thước cao 30 cm,
kích thước 40 cm x 40 cm, đục lỗ ở đáy túi.                rộng 30 cm và dài 20 – 30 m.
Tưới nước: sử dụng giếng khoan hay nước sông suối, pH từ 6 -7, không mặn, không phèn.
Phân bón như KNO3, MgSO4, K2SO4, (NH4)2SO4, Ure, KH2PO4, Ca(NO3)2 thường được hòa vào nước thành dung dịch dinh dưỡng tưới cây, đảm bảo đủ các nguyên tố cần thiết cho sinh trưởng và phát triển là K, N, P, S, Ca, Mg. Dung dịch dinh dưỡng và nước tưới được cung cấp đồng thời qua hệ thống tưới nhỏ giọt có nồng độ phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng theo từng giai đoạn sinh trưởng của cây.
Khi trồng được 7 – 10 ngày, bắt đầu treo dây cố định cây, đến giai đoạn ra hoa tiến hành thụ phấn bằng ong hoặc thủ công. Mỗi cây để lại từ 1 – 4 quả, sau đó tỉa hết cành nách tạo thông thoáng và hạn chế tiêu hao dinh dưỡng. Khi quả có đường kính từ 2 – 4 cm (khoảng 40 ngày sau trồng) thì hãm ngọn để tập trung dinh dưỡng nuôi quả.

         

                           Sử dụng ong mật thụ phấn cho dưa lưới trồng trong nhà màng.

             

Bấm ngọn chính khi cây được 23 – 25 lá.                       Bấm ngọn bên, bấm chừa lại 2 lá.

Loại sâu hại dưa lưới trồng trong nhà màng chủ yếu là bọ trĩ (Thrips palmi Karny) và bọ phấn (Bemisia tabaci). Bọ trĩ phát triển mạnh trong điều kiện thời tiết nóng và khô, gây hại nặng giai đoạn cây con đến ra hoa, đậu trái. Bọ phấn hoạt động vào sáng sớm và chiều mát, hút nhựa làm cây có thể bị héo, ngã vàng và chết; truyền các bệnh virus. Để phòng, trừ có thể dùng bẫy dính; thiên địch nhện nhỏ (Amblyseius cucumber), bọ xít (Orius sauteri và Orius strigicolly), phun thuốc bảo vệ thực vật; vệ sinh vườn trồng, v.v…

              

Thành trĩ (Thrips palmi Karny).                                      Thành trùng Bọ phấn (Bemisia tabaci).

Một số bệnh phổ biến gây hại dưa lưới như bệnh phấn trắng do nấm Erysiphe cichoracearum De Candolle hại lá, thân, cành ngay từ thời kỳ cây con; bệnh sương mai giả do nấm Pseudoperonospora cubensis, gây hại trên tất cả các bộ phận nhưng phổ biến nhất là lá; bệnh nứt thân chảy nhựa do nấm Mycosphaerella melonis, gây hại chủ yếu trên thân, đôi khi trên lá và cuống quả, gây nứt, chảy nhựa, cây có thể bị khô chết. Cách phòng trừ là vệ sinh đồng ruộng, thu dọn sạch tàn dư thân lá bị bệnh, tiêu diệt cỏ dại, mật độ trồng hợp lý, bón phân cân đối N-P-K; phun thuốc kịp thời khi phát hiện bệnh,…

        

Triệu chứng của bệnh phấn trắng                        Triệu chứng của Mycosphaerella melonis.(Erysiphe cichoracearum).

Đánh giá hiệu quả kinh tế

Đánh giá hiệu quả của mô hình trồng dưa lưới trong nhà màng áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt dựa trên kết quả thực tế tính trên 1.000 m2, thời gian của 1 vụ trồng là 70 ngày.
Hai khoản đầu tư quan trọng là cơ sở vật chất:
• Nhà màng: 400.000 đồng/m2 x 1000 m2= 400.000.000 đồng. Khấu hao trong 10 năm.
• Hệ thống tưới nhỏ giọt: 30.000.000 đồng. Khấu hao trong 5 năm.

(Số liệu thời điểm nghiên cứu nên mang tính tham khảo)

Công nghệ xử lý, đóng gói, bảo quản và chế biến sau thu hoạch 

Dưa lưới chịu nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng về cảm quan cũng như dinh dưỡng, tỉ lệ hư hỏng, thời gian bảo quản sau thu hoạch. Các yếu tố bên trong là do dưa sau thu hoạch vẫn tiếp tục một số quá trình sinh lý, sinh hóa như hô hấp, thoát hơi nước, sản sinh khí ethylene, quá trình chín, nấm bệnh,… làm dưa bị héo, giảm khối lượng chất khô, vỏ, thịt quả mềm đi, không còn độ giòn và có thể bị hư hỏng hoàn toàn; giảm thời gian bảo quan; dễ bị tổn thương cơ học khi vận chuyển đi xa,… Những yếu tố bên ngoài cũng tác động không nhỏ đến thời gian bảo quản và tỉ lệ hư hỏng như nhiệt độ, độ ẩm không khí, hàm lượng oxy, khí ethylene, hàm lượng cacbonic, nấm bệnh, vi khuẩn xâm nhiễm bề mặt.
Để khắc phục, một số biện pháp xử lý trên cây ở giai đoạn cận thu hoạch nhằm nâng cao chất lượng dưa sau thu hoạch. Một số kết quả nghiên cứu trên thế giới và trong nước cho thấy xử lý bằng peroxide hydrogen (H2O2) có tác dụng làm tăng độ ngọt của dưa lưới nhờ kích thích cơ chế phản hồi tự bảo vệ của cây và tăng nồng độ các chất thẩm thấu trong đó có glycinebetaine, tăng hoạt tính các enzyme chịu hạn và tăng hàm lượng đường. Mặt khác, chất điều hòa sinh trưởng aminoethoxyvinylglycine (AVG) cũng được nghiên cứu và ứng dụng để làm chậm quá trình chín và tăng cường độ chắc của quả. Hiện Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển nông nghiệp Công nghệ cao cũng xử lý bằng H2O2 ở nồng độ 1-5 ppm khi dưa bắt đầu tạo lưới.
Dưa nên được thu hoạch đúng thời điểm dựa trên chỉ số chín (dựa vào các yếu tố như thời gian từ lúc trồng, độ tạo lưới, độ nứt của cuống) để quả đạt chất lượng tốt nhất khi đến tay người dùng, kéo dài thời gian tồn trữ.

          

Thời điểm nứt cuống – 58 ngày.                               Thời điểm đứt cuống – 65 ngày.

Trái dưa lưới sau khi thu hoạch thường chứa các loại nấm bệnh như Fusarium, Geotrichum, Rhizopus hoặc các vi khuẩn gây bệnh như Salmonella spp, E. Coli nên phải được xử lý trước khi đóng gói, bảo quản hoặc đưa ra thị trường. Một số kết quả nghiên cứu trên thế giới tập trung vào xử lý bằng dung dịch H2O2 nồng độ từ 10 – 50 ppm, chlorine nồng độ 100 ppm, nhúng quả bằng nước nóng và các hóa chất như sulphat đồng, chlorine, borat natri. Hoặc sử dụng màng bao sinh học, kiểm soát thành phần không khí, khí ethylene, v.v… Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển nông nghiệp Công nghệ cao hiện xử lý bằng chlorine ở nồng độ 50 – 100 ppm.
Ở Nhật Bản, trước ngày thu hoạch, dưa được dán nhãn đã đánh số và thu hoạch trong khoảng 14 ngày; bảo quản ở 2oC trong 2 tuần và trước khi xuất bán, nâng nhiệt độ lên 20oC trong 1 tuần rồi để ở nhiệt độ phòng trong 3 giờ nhằm hạn chế sốc nhiệt.
Việt Nam có rất ít nghiên cứu công nghệ bảo quản dưa lưới sau thu hoạch. Thực tế là dưa được tiêu thụ trong thời gian ngắn, thường bảo quản ở nhiệt độ thường nên thời gian bảo quản ngắn, chất lượng giảm nhanh, không vận chuyển và tiêu thụ được ở thị trường xa.

Nghiên cứu dưa lưới qua thông tin sáng chế

Theo cơ sở dữ liệu sáng chế (SC) Wipsglobal, đăng ký SC liên quan đến dưa lưới đầu tiên vào năm 1935, đến năm 2013 có 332 SC liên quan đến kỹ thuật trồng trọt – thu hoạch – bảo quản dưa lưới, tập trung nhiều nhất là từ năm 2000 đến nay với 270 SC, chiếm 81% tổng lượng SC (BĐ1). Các nước có nhiều đăng ký SC liên quan đến dưa lưới là ba nước châu Á gồm Trung Quốc (CN) – chiếm tới 56% tổng lượng SC, kế đến là Hàn Quốc (KR), Nhật Bản (JP), rồi đến Mỹ (US) và Nga (RU) (BĐ2). Các SC liên quan đến kỹ thuật trồng, chăm sóc dưa lưới chiếm 69% và liên quan đến thu hoạch và bảo quản chiếm 31% trên tổng lượng SC (BĐ3). Các SC liên quan đến kỹ thuật trồng, chăm sóc dưa lưới tăng mạnh theo thời gian thể hiện sức hút của dưa lưới đối với các nhà nghiên cứu và người tiêu dùng. SC về các phương pháp thu hoạch, bảo quản có tăng giảm qua các thời kỳ, tuy nhiên, trong 5 năm vừa qua, lượng SC thuộc lĩnh vực này tăng đột biến (BĐ4) cho thấy tầm quan trọng của công nghệ sau thu hoạch dưa lưới để đáp ứng nhu cầu bảo quản, phân phối trên thị trường.

Theo các diễn giả trong buổi “Báo cáo phân tích xu hướng công nghệ” tháng 07/2014 tại Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ TP. HCM (CESTI) với chuyên đề “Sản xuất rau quả ứng dụng công nghệ cao – Mô hình nhà kính nhà lưới (nhà màng)” cho biết thị trường dưa lưới thế giới cũng như trong nước cầu lớn hơn hẵn cung. Hiện chỉ có vài công ty ở phía Nam sản xuất dưa lưới nhưng quy mô nhỏ và tiêu chuẩn sản xuất chưa cao nên chưa thể đáp ứng cho các thị trường như Nhật Bản (giá gấp đôi trong nước) mà chỉ có thể cung cấp một phần nhu cầu trong nước, tiêu thụ chủ yếu tại các siêu thị.

BĐ 1: Tình hình đăng ký bảo hộ SC liên quan dưa lưới từ năm 2000-2013

BĐ 2: Các nước có nhiều đăng ký bảo hộ SC liên quan đến dưa lưới

BĐ 3: Đăng ký bảo hộ SC               BĐ 4: Phát triển đăng ký bảo hộ SC liên quan đến dưa 

liên quan đến dưa lưới                                        lưới theo lĩnh vực

theo lĩnh vực 

    

* Nguồn: ANH THY – CESTI, theo STINFO.

Chuyên mục
CÂU CHUYỆN NÔNG SẢN Nông nghiệp 4.0

Những ứng dụng công nghệ hiện đại nhất trong nông nghiệp

Điện toán đám mây, máy bay không người lái hay đeo thẻ điện tử cho gia súc là những công nghệ hiện đại đang được nhiều nước ứng dụng trong nông nghiệp công nghệ cao. 

Ứng dụng tưới tiêu trên Smartphone

Một trong những công việc quan trọng của người nông dân là đảm bảo lượng nước phù hợp cho cây trồng, đặc biệt trong điều kiện không có mưa. Loạt ứng dụng trên điện thoại di động tên là ‘tưới tiêu thông minh’ đã giúp họ giải quyết được vấn đề này.

Ứng dụng này sử dụng công nghệ định vị GPS, dự đoán lượng nước cây cần, phân tích dữ liệu trên cơ sở tính toán điều kiện thời tiết, lượng mưa của địa phương và lập trình để đưa ra công thức lượng nước phù hợp nhất theo từng thời điểm trong mỗi ngày cho cây trồng.

Điện toán đám mây

Công nghệ điện toán đám mây được ứng dụng và phát triển ở nhiều ngành, nhiều khu vực khác nhau, và cũng rất phổ biến trong nông nghiệp. Theo thống kê, hiện trên 30% nông trại khu vực Châu Âu và Châu Mỹ đã sử dụng công nghệ này, bao gồm những lưu trữ dữ liệu tồn kho, lịch trình sử dụng thiết bị, mô hình thời tiết và năng suất cây trồng…

Các thông tin được lưu giữ trên máy chủ và người sử dụng có thể đồng bộ hóa dữ liệu của họ trên các máy tính hay các loại máy móc khác nhau, tận dụng những phần mềm tùy chỉnh để có những nhận định chính xác về những gì đang diễn ra trong các nông trại của họ.

Máy bay không người lái

Máy bay không người lái trong Nông nghiệp CNC thường được thiết kế hình dạng như trực thăng hay đĩa bay loại nhỏ và có thể được kích hoạt tự động qua GPS.

Trên máy bay có gắn các cảm ứng và máy ảnh được đặt chế độ chụp tự động, ngẫu nhiên, cho phép quan sát, theo dõi các điều kiện của đất, nước, cây trồng ở góc độ mắt thường không nhìn thấy được và đưa ra những cảnh báo khi cần thiết.

Các loại cảm ứng, bao gồm cảm ứng đo nồng độ Nitơ

Nitơ là một thành phần quan trọng trong phân bón, cung cấp các dưỡng chất cần thiết cho cây trồng. Khi hấp thụ Nitơ từ phân bón, cây trồng sẽ xử lý và chuyển khí Nitơ ra ngoài không khí.

Tuy nhiên lượng Nitơ trong phân bón không được cây hấp thụ hết sẽ không thể tự bay đi mà đọng trong nước ngầm, không chỉ gây ra hậu quả xấu như biến đổi khí hậu mà còn có nguy cơ làm chết cá và các động thực vật thủy sinh khác. Hơn thế quá nhiều Nitơ cũng khiến cây trồng yếu đi.

Vì thế người ta đã sáng chế ra nhiều loại cảm ứng Nitơ được gắn các cảm biến quang học đo sức khỏe của cây, giúp nhà nông sử dụng lượng phân bón phù hợp.

Bộ cảm biến sẽ bắn các tia hồng ngoại và ánh sáng đỏ ra cánh đồng và đo lượng ánh sáng cây trồng phản chiếu lại. Ánh sáng phản chiếu càng mạnh nghĩa là cây càng khỏe và ngược lại, ánh sáng yếu tức là cây cần thêm phân bón.

Ngoài ra là hàng loạt cảm ứng được sử dụng trong thời gian gầy đây giúp việc đánh giá, quản lý cây trồng và gia súc dễ dàng hơn rất nhiều, chẳng hạn cảm ứng đo độ ẩm, không khí, hướng gió, thành phần đất…

Thẻ điện tử

Ngày nay ở nhiều trang trại, người ta thường cấy lên người gia súc các thẻ điện tử để quản lý gia súc. Các thẻ này có chip nhận dạng tần số vô tuyến, kết nối với các ăng-ten đặt trên các khay thức ăn giúp người nông dân nắm được chi tiết mỗi gia súc đã ăn được bao nhiêu và ăn lúc nào.

Thông thường khi gia súc thay đổi chế độ ăn chính là dấu hiệu sức khỏe của chúng có gì đó không ổn. Tương tự như vậy, người ta lắp máy đếm bước vào mắt cá chân của bò để biết được chúng đã đi dạo hay đứng yên bao lâu, đây là dấu hiệu khá quan trọng cho thấy bò đang nóng và cũng có thể chỉ ra các vấn đề về sức khỏe của bò.

Việc nắm được tình trạng sức khỏe bò, đặc biệt phát hiện ra ngay khi bò bị những bệnh như lở mồm long móng, bò điên, bệnh lây nhiễm… có ý nghĩ rất lớn, giúp người nông dân có thể cách ly và xử lý kịp thời, không gây ảnh hưởng tới cả đàn gia súc.

Bột chịu hạn 

Loại bột này có cơ chế giống như tã (bỉm) của em bé, hiện được sử dụng khá rộng rãi ở những khu vực thường gặp hạn hán hay quá khô như Mexico, các nước Nam Mỹ, các nước vùng sa mạc.

Một cục bột có thể hấp thụ và giữ một lượng nước lớn gấp 500 lần thể tích của nó. Cụ thể, 10 g bột từ loại nhựa polymer có thể hút cạn 1 lít nước. Khi ngậm đủ nước, các hạt nhựa này chuyển thành dạng keo đục, giữ nước bên trong và nước không hề bị bốc hơi hay ngấm xuống đất mà chỉ giảm đi khi có rễ cây cắm vào tiêu thụ.

Sau khi hết hạn sử dụng, hạt tinh thể này tan ra và không hề ảnh hưởng xấu đến đất trồng. Sử dụng loại bột này cũng giúp tăng lượng cây trồng trên cùng một diện tích đất lên đến 300%.

Công nghệ nhà kính

Đây là một trong những loại công nghệ được áp dụng phổ biến nhất trong nông nghiệp, bạn có thể dễ dàng gặp nhà kính ở các nông tại từ châu Á đến Âu, Mỹ, Phi, Úc.

Nhà kính thường có các cạnh và mái được làm bằng nilon, nhựa hoặc kính, có khả năng tự nóng lên do bức xạ nhìn thấy được của mặt trời (tia cực tím, tia tử ngoại, tia UV) khi đi qua lớp kính trong suốt bị hấp thụ bởi thực vật, đất đai và những vật thể khác bên trong nhà kính, nhiệt từ những bề mặt nóng bên trong được giữ lại bởi tường kính và làm không khí bên trong ấm lên.

Hơn thế, cây cối và cấu trúc bên trong nhà kính sau khi được làm ấm lại bức xạ một lần nữa nhiệt năng của chúng trong dải quang phổ hồng ngoại, và tác động lên nhiệt độ, môi trường bên trong nhà kính.

Nuôi trồng trong nhà kính có thể cho năng suất cao gấp 50 lần so với nuôi trồng trong môi trường truyền thống ngoài trời.Dễ thấy nhà kính có rất nhiều ưu điểm, như tránh được điều kiện khí hậu bất lợi, đảm bảo luôn giữ được môi trường ổn định cho cây trồng vật nuôi, chống côn trùng, bệnh tật lây lan…

Đặc biệt chỉ cần kết hợp với một số ứng dụng công nghệ khác như công nghệ gene, nhân giống, quang học, cảm biến…

Công nghệ đèn LED

Bên cạnh nhà kính, đèn LED cũng là một trong những công nghệ được sử dụng ngày càng nhiều trong nền NNCNC.

Chúng ta đã biết, ánh sáng có nhiều tác động đến tốc độ sinh trưởng của cây trồng và vật nuôi.

Do đó, người ta sử dụng công nghệ đèn LED để điều chỉnh ánh sáng phù hợp cho cây trồng, vật nuôi tùy theo thời điểm nhất định, nhằm kích thích tăng trưởng, tăng giá trị dinh dưỡng, giảm nồng độ Nitrat trong rau quả, hay để ươm giống cây, thu hút côn trùng gây hại mùa màng, chiếu sáng dẫn dụ trong đánh bắt hải sản, thay đổi nhịp sinh học nhằm kích thích sinh trưởng đối với vật nuôi…

Các ứng dụng công nghệ sinh học

Ngành nông nghiệp là một trong những ngành tận dụng được nhiều hiệu quả của công nghệ sinh học. Có thể nói Nông nghiệp CNC bao gồm một phần ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp, với mục đích tạo ra các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất lượng cao hơn.

Chẳng hạn công nghệ vi nhân giống cho phép lựa chọn và thuần hóa thực vật, công nghệ chuyển gene thực vật để phát triển trong môi trường cụ thể với sự hiện diện hay không hiện diện của hóa chất, hay kỹ thuật chuyển gen kháng sâu bệnh vào thực vật, do đó không cần phải sử dụng quá nhiều chất bảo vệ thực vật …

Có hàng triệu ứng dụng công nghệ sinh học lên các đối tượng gia súc và cây trồng đã được sử dụng trong nền Nông nghiệp CNC hiện nay.

* Nguồn: Đ.K. Hà

 

Chuyên mục
Nông nghiệp 4.0

Trồng Rau Bằng Container, Thu 3 Triệu Usd Mỗi Năm

Container chở hàng từ lâu đã được cải tiến để làm văn phòng, nhà ở hay thậm chí là hồ bơi. Nhưng việc biến container thành vườn rau “tự cung tự cấp” có lẽ là ứng dụng mang lại nhiều giá trị nhất.

Nội dung nổi bật:

Bối cảnh: Nhu cầu trồng cây trong thành thị luôn cao, nhưng các khu vườn trên sân thượng lại đòi hỏi thời gian thi công kéo dài và chi phí quá lớn với đại đa số người dân.

Ý tưởng: Tận dụng những container lạnh có khả năng cách nhiệt, Freight Farms trang bị thêm đèn và hệ thống tưới tiêu với khả năng theo dõi từ xa qua ứng dụng điện thoại.

Kết quả: Với doanh thu 3 triệu USD mỗi năm và huy động được 12,2 triệu USD vốn đầu tư, Freight Farms không chỉ thay thế được các vườn rau thành thị mà còn là cả nền nông nghiệp già cỗi.

—————————————————————

Những người nông dân thành thị

Tại một bãi đất trống gần sân bay Boston Logan tại Anh, một người đàn ông đang dùng 5 container để trồng hơn 30.000 chậu xà lách, rau thơm và nhiều loại rau khác.

“Tôi không dám tự nhận mình là một nông dân. Nhưng phải thừa nhận là làm nông thú vị hơn làm văn phòng rất nhiều”, Cooney, 61 tuổi, cựu kỹ sư công nghệ thông tin đã nghỉ hưu để chuyển sang trồng trọt toàn thời gian vào năm 2013 cho hay.

Được đánh giá là khu vực có chi phí sinh hoạt đắt đỏ nhất trên cả nước, Cooney và 30.000 chậu rau của ông vẫn đang hoạt động rất tốt ngay tại trung tâm Boston và đem lại một nguồn thu nhập béo bở nhờ vào công nghệ trồng trọt hiện đại.

Từng được sử dụng để vận chuyển những miếng thịt thượng hạng vượt đại dương, những chiếc container lạnh của ông có khả năng tạo ra một không gian hoàn toàn cách biệt so với thế giới bên ngoài, bất chấp nắng nóng hay tuyết lạnh.

Trong mỗi container là một hệ thống đèn LED cung cấp ánh sáng cần thiết cho cây, đảm bảo cây trồng hấp thụ hoàn toàn năng lượng được cung cấp với chi phí thấp nhất.

Cũng như các trang trại hiện đại, toàn bộ cây trồng trong container được trồng bằng công nghệ thủy canh, hoàn toàn không sử dụng đất để loại bỏ tất cả nguy cơ dịch hại. Khoảng 12 phút một lần, dưỡng chất sẽ được đưa vào hệ thống để truyền tới mọi nơi.

Tránh được tác nhân hủy hoại cây trồng lớn nhất – môi trường, Cooney và vườn cây container của ông có khả năng tạo ra 4.000 tới 6.000 chậu cây mỗi tuần, gấp 80 lần nếu so với việc sử dụng cùng một diện tích đất để trồng rau theo phương pháp truyền thống.

Kinh tế học đằng sau những chiếc “container rau cải”

Với chất lượng không thể bàn cãi từ phương pháp trồng thủy canh, tất cả sản phẩm của Cooney đều được các nhà phân phối lớn mua lại ngay khi đủ tiêu chuẩn, sau đó được vận chuyển tới hệ thống nhà hàng cao cấp trong khu vực Boston.

“Rau cải của tôi có mùi vị ngon hơn, và hình dáng cũng khác hẳn so với các sản phẩm khác trên thị trường” – Cooney tự hào chia sẻ: “Các đầu bếp chỉ cần nếm thử một lần sẽ nhận ra sự khác biệt.”

Với giá mua là 60.000 USD cho những khách hàng đặt sớm, tất cả container đều được Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ hỗ trợ vay vốn với lãi suất thấp, giúp Cooney nhanh chóng bắt tay vào sản xuất mà không cần phải lo nhiều về vốn.

Hiện 5 container này đang đem về cho nhà đầu tư 61 tuổi gần 15.000 USD mỗi tháng, trừ đi lãi suất ngân hàng, tiền thuê đất, tiền điện, nguyên vật liệu … hai vợ chồng Cooney vẫn còn dư một khoản kha khá để trả lương cho bản thân.

Nhưng mức thu nhập đó vẫn còn cơ hội phát triển khi Cooney ấp ủ dự định mở một cửa hàng tại chợ Boston, bán trực tiếp tới tay người tiêu dùng với mức giá cao hơn so với thương lái thu mua hiện nay.

Freight Farms – Thương hiệu đằng sau giấc mơ của Cooney

Có thể thấy, công nghệ trồng rau trong container đang mở ra một tương lai rất thú vị cho người kỹ sư 61 tuổi Cooney, nhưng câu chuyện của thương hiệu cung cấp công nghệ cho ông cũng thú vị không kém.

Mọi chuyện bắt đầu với Brad McNamara, một nhà thầu có nhiều năm kinh nghiệm thiết kế những vườn rau trên sân thượng.

Dù rất thích thú với những giá trị mà công trình của mình đem lại, nhưng Brad vẫn rất băn khoăn vì các dự án này có thể mất đến vài năm để xin giấy phép và thống nhất thiết kế với khách hàng, dẫn đến việc mỗi mô hình lại hoàn toàn khác nhau, không thể sao chép từ bên này sang bên khác.

Nhưng điều làm Brad trăn trở nhất là mức phí cực kỳ cao, từ 1,2 đến 2 triệu USD cho mỗi dự án, biến mô hình trồng rau trên sân thượng trở thành một trong những “thú vui xa xỉ” của giới nhà giàu.

Tất cả những điều trên đã dẫn đến sự ra đời của Freight Farms vào năm 2010, với mục tiêu đem lại giải pháp trồng rau hiệu quả nhưng chi phí bắt đầu và duy trì rẻ nhất có thể, và đặc biệt là khả năng sản xuất 24/24 bất chấp điều kiện thời tiết.

“Tại sao phải sáng chế thêm khi chúng ta đã có một “thùng chứa hàng” có khả năng chịu đựng nhiệt độ khắc nghiệt nhất, chưa kể một hệ thống vận tải sẵn sàng vận chuyển những thùng chứa kia một cách cực kỳ dễ dàng.” Brad cho hay.

Biết rằng chỉ có những người quan tâm đến môi trường mới thích thú với dự án trên. Brad McNamara cùng một người bạn là Jon Friedman đã kêu gọi 26.040 USD trên Kickstarters nhằm tạo ra bản mẫu có khả năng sản xuất 24/7 đầu tiên.

Vượt ngoài mong đợi, lời kêu gọi trên nhanh chóng nhận được hơn 30.000 USD để xây dựng một bản mẫu cỡ lớn để biến ý tưởng kia thành hiện thực.

Với giá bán lẻ khá cao, gần 85.000 USD/container được trang bị hoàn chỉnh, Freight Farms cam kết doanh thu gần 39.000 USD mỗi năm trên mỗi container với những lợi ích rất lớn cho khách hàng.

Trong vòng một năm, một container với diện tích gần 30 mét vuông có khả năng cung cấp tương đương với 12.000 mét vuông trồng trọt truyền thống. Không những thế, sản phẩm này chỉ sử dụng 37 lít nước một ngày, chỉ bằng 95% so với công nghệ cũ.

Tất cả cây trồng còn được đảm bảo không có chất hóa học, thuốc trừ sâu hay thuốc diệt cỏ với khả năng cho ra lò từ 25 ký tới 50 ký xà lách mỗi tuần.

Hệ thống đèn LED tập trung cung cấp ánh sáng màu đỏ và xanh, những bức xạ quan trọng nhất trong quá trình quang hợp của cây, ngoài ra thì hệ thống cung cấp dưỡng chất cũng hoàn toàn tự động với khả năng báo cáo mọi hoạt động qua ứng dụng điện thoại.

Cuối cùng là thời gian trồng trọt, chỉ cần 7 tuần để khai thác lứa đầu tiên, chỉ bằng một nửa thời gian so với công nghệ truyền thống.

“Đa phần khách hàng của chúng tôi không có kinh nghiệm làm nông,” Brad cho hay: “Họ là những giáo viên, nhân viên văn phòng đã nghỉ hưu, những người trẻ muốn khởi nghiệp … nhưng tất cả đều có mong muốn trồng trọt ngay tại thành phố mà mình sinh sống.”

Với những khách hàng này, Freight Farms thường xuyên tổ chức “Ngày hội nông nghiệp” để cung cấp kiến thức, nguyên vật liệu, hướng dẫn từng bước để bắt đầu sự nghiệp làm nông. “Thành công của khách hàng là thành công của chúng tôi,” Brad chia sẻ: “Freight Farms sẽ thất bại nếu khách hàng không thành công.”

Với chỉ 20 nhân viên, Freight Farms hiện đem về hơn 3 triệu USD mỗi năm với mục tiêu cao cả của mình.

Doanh nghiệp này cũng rất thành công sau đợt huy động cộng đồng trên Kickstarters, những “containers rau cải” đã gọi thành công 5 vòng với tổng giá trị hơn 12,2 triệu USD, một tiềm lực chắc chắn để tiếp tục thay đổi phương thức trồng trọt của tương lai.

Theo Trí Thức Trẻ

Nguồn: startupinsider.net

Chuyên mục
Nông nghiệp 4.0

Đăng Ký Bán Hàng Trên Foodmap

Chuyên mục
Nông nghiệp 4.0

Cách mạng công nghiệp: Robot sẽ thay nhà nông trên cánh đồng

Nói một cách dễ hiểu thì đó là các nhà máy thông minh với máy móc được kết nối và liên kết qua internet, tự vận hành toàn bộ quy trình sản xuất và cần rất ít đến sự xuất hiện của con người. Tại VN, khái niệm công nghiệp 4.0 cũng đang được nhắc đến như một cơ hội để nền kinh tế bứt phá.

Máy sẽ quyết định cuối cùng

Công nghiệp thế hệ 4.0 trong nông nghiệp được hiểu một cách nôm na là nhà nông có thể sử dụng máy vi tính để phân tích mùa vụ tới có thể trồng được cây gì, lượng nước tưới ra làm sao, cần bổ sung phân bón gì… Thậm chí biết được mùa vụ này thời tiết thay đổi không thể trồng loại cây đó bởi sẽ cho năng suất thấp. Nhà nông có thể nhờ vào máy tính, robot để thay mình quyết định tất cả và chính xác đến từng chi tiết nhỏ.

Theo Hội Nông dân VN, công nghệ tự động hóa sẽ thực hiện và giải được các bài toán dự báo về biến đổi khí hậu (lũ lụt, hạn hán…), dự báo thị trường, tính toán nhu cầu nước, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và các vật tư khác một cách chính xác, điều hành cung cấp các loại vật tư vừa đủ cho cây trồng, xác định sức khỏe của vật nuôi.

Chuyên gia công nghệ Nguyễn Đăng Tiến, Phó chủ tịch Tập đoàn Diginet, nhận định công nghiệp thế hệ thứ 4 sẽ giúp ngành nông nghiệp có sự thay đổi phát triển lớn về lượng lẫn chất. “Mọi việc con người làm thì với công nghệ thứ 4, chính những robot hoàn toàn nắm phần chủ động, thay nhà nông trên cánh đồng. Với dữ liệu lớn, IoT giúp phân tích để đưa ra quyết định thay vì con người quyết định sau cùng như hiện nay”, ông Tiến nói.

Ví dụ một nhà nông muốn trồng rau, cây ăn quả trên mảnh đất của mình, thường qua kinh nghiệm bản thân, cha truyền con nối. Như vùng đất đỏ bazan thường được chọn trồng các cây công nghiệp như cao su, tiêu, điều…, vùng đồng bằng đất sét giàu phù sa thường để trồng lúa, cây ăn quả… tất cả đều từ kinh nghiệm và phỏng đoán là chính. Tuy nhiên, với công nghiệp số mới, mọi cái có thể thay đổi.

Ông Nguyễn Quốc Hùng, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn LogiGear (Mỹ), phân tích: “Chính công cụ IoT giúp đo được độ ẩm của đất, độ dinh dưỡng, tính chất… kết hợp nhiều dữ liệu khác, đưa ra quyết định vùng đất của ông A này xưa nay chỉ có trồng bưởi da xanh là không đúng mà chỉ thích hợp để trồng lúa nước. Quan trọng là công nghệ số cần một lượng dữ liệu lớn, từ đó, thay con người tổng hợp, phân tích và đưa ra kết luận nói trên. Hoặc chẳng hạn đất ở vùng quê tỉnh Long An xưa nay nhà nông chỉ có trồng dưa hấu, nhưng qua phân tích dữ liệu từ IoT, với độ ẩm vùng và ánh sáng ở đó, kết luận cho biết trồng dưa hấu là không thích hợp, chỉ có trồng rau thôi…”.

Nhà nông sẽ chỉ ngồi trước máy ?

Như vậy, người máy sẽ dần hiện diện nhiều hơn trong sản xuất nông nghiệp trực tiếp, thậm chí thay thế hoàn toàn con người. “Nhà nông lúc đó chỉ có thể là người quản lý đồng ruộng, quản lý chuồng trại, thay vì mất cả ngày làm việc trên cánh đồng hay trong trại chăn nuôi gà, heo. Hiện tại đã có một số quốc gia phát triển như Nhật, Mỹ sản xuất ra người máy với giá thấp nhất chỉ hơn 100 USD, dùng để phục vụ sản xuất nông nghiệp”, ông Tiến thông tin. Ngoài ra, tại các trang trại chăn nuôi lớn, theo chuyên gia công nghệ, công nghệ số không chỉ giúp thu thập số lượng lớn dữ liệu từ các con chíp được gắn trên các cá thể vật nuôi để theo dõi mà giúp đưa ra các thông tin kiểm soát được thời điểm nào cho ăn, ăn lượng bao nhiêu để đạt hiệu quả cao nhất.

“Con người lúc đó có thể chỉ quản lý trang trại gà đó bằng việc ngồi trước chiếc máy vi tính để thao tác chứ không phải đi vào trong trại gà nữa”, ông Tiến dự báo.

Nguồn: thanhnien.vn

Chuyên mục
Nông nghiệp 4.0

Choáng ngợp trước quy mô “khủng” của nông trang Hà Lan

Là quốc gia ven biển, có nhiều con sông lớn, đất đai của Hà Lan màu mỡ, nhưng có hạn. Hà Lan có khoảng 2 triệu ha đất nông nghiệp, bao gồm hơn 110 nghìn ha đất trồng hoa, quả, làm vườn, 12.200 ha trồng hoa và rau trong nhà kính với khoảng 135 nghìn người lao động làm việc thường xuyên (số liệu 2012).

Nông nghiệp Hà Lan áp dụng tự động hoá, rô bốt nhân tạo và cả sức người, hướng đến mục tiêu cuối cùng là tiêu dùng. Hà Lan là quốc gia xuất khẩu hạt giống hoa thứ 2 thế giới, xuất khẩu hoa nổi tiếng thế giới, được công nhận là quốc gia áp dụng tiêu chuẩn kiểm soát sinh học đặc biệt phát triển để tạo ra sản phẩm nông nghiệp sạch nhất thế giới. Các doanh nghiệp hợp tác với các viện nghiên cứu và cả chính phủ để sản xuất liên tục bền vững.
Không chỉ là một ngành công nghiệp, nông nghiệp nhà kính còn là một khu vực dẫn đầu của nền kinh tế Hà Lan. Sự liên kết giữa doanh nghiệp, khoa học hiện đại đã tạo ra những khu nhà kính quy mô cực lớn, năng suất cao, không ngừng cho ra sản phẩm đến mức người chủ không còn thời gian để tính toán lợi nhuận mà chỉ có thể nhớ đã đầu tư bao nhiêu và thu về hơn thế bao nhiêu.

Xuất phát điểm từ năm 1960, và đã thành truyền thống tháng Tư hàng năm, các khu nhà kính Hà Lan mở cửa miễn phí thăm quan. Ngày này gọi là Komindeskas – “Thăm nhà kính”. Năm 2017, ngày 1/4-2/4/2017 là hai ngày duy nhất người Hà Lan có thể thăm các khu nhà kính nông nghiệp trên toàn quốc. Sẽ có hơn hai trăm khu trồng rau, hoa và cây thuộc 12 vùng của Hà Lan tham dự, dự kiến đón trên 200 nghìn lượt khách.
Vào ngày này, chủ vườn không chỉ mở cửa cho khách vào xem, mà còn thiết đãi khách trái cây, củ, quả tại vườn, chế biến thành các món ăn nhẹ, phục vụ thực khách, mà còn lập các khu trưng bài, góc vui chơi với các trò vui nhộn, thông minh, hấp dẫn. Trong ngày Komindekas, các khu nhà kính trở thành điểm thăm quan hấp dẫn, thu hút sự chú ý của trẻ em, thanh niên, người già và khách quốc tế về những điểm mạnh của nền nông nghiệp hiện đại.

Tuy không nói ra song Thăm nhà kính còn có mục đích quảng bá thương mại. Trong đoàn người nườm nượp xếp hàng vào khu nhà kính, có rất nhiều người nước ngoài. Ngay tại các khu thăm quan, người chỉ dẫn cho khách đều nói được tiếng Anh, còn nhiệt tình giải thích mọi câu hỏi nếu có. Khách quốc tế thì biết thêm được về sự ưu việt của cách làm vườn, làm nông tuy tưởng đơn giản mà rất tinh vi và hiện đại của Hà Lan.

Vườn hoa phong lan rộng mênh mông

Tại các khu nhà kính, chủ vườn hào phóng phô bày không chút dấu diếm tất cả sự kỳ diệu về công nghệ làm vườn trong nhà kính. Các doanh nghiệp đầu ra cũng được mời đến, trình diễn các mẫu hàng làm từ nông sản nhà kính: để quảng cáo hoa, các quầy tư nhân bày ra tranh vẽ lấy cảm hứng từ hoa, củ, quả, thời trang theo phong cách sắc màu rực rỡ; về quảng bá quả, các nhà hàng nấu tại chỗ các món ăn nhẹ; để giới thiệu các loại củ, đầu bếp chế biến sinh tố, trộn sa lát phục vụ ngay khách thăm….
Các khu nhà kính không chỉ thu hút trẻ em, khách lớn tuổi mà còn hấp dẫn cả thanh niên. Đây là khu vực tạo công ăn việc làm hấp dẫn, nhiều thanh niên Hà Lan đến đây để tìm cơ hội việc làm.

Khu Freesia

Các nông dân, chủ vườn và người làm công tự nguyên tham gia phục vụ hoạt động này tại khu nhà kính của mình. Khách tham quan được hỗ trợ xe bus con thoi đi lại tới khu vực tham quan, và có thể đi bộ, đi xe đạp để di chuyển giữa các khu nhà kính. Tại khu trưng bày cuối cùng, khách sẽ được mua các sản phẩm nông nghiệp với giá ưu đãi, đây chính là điều mà các thực khách và gia đình mong chờ sau cả chuyển tham quan.
Đơn cử tại 10 khu nhà kính vùng Westland, quê hương của Komindekas, cách thành phố La Hay gần 20 km, đơn vị tổ chức bố trí hàng chục xe bus đưa đón chở khách vào điểm thăm quan, tiếp đón chu đáo. 10 trang trại rộng lớn, được đánh số, chỉ dẫn rõ ràng chủ yếu là các khu nhà kính hoa và củ. Mỗi khu có gian trưng bày bên ngoài và bên trong là vườn canh tác.

Khu ớt chuông

Ngẫm lại Việt Nam quốc gia có lợi thế sản xuất rau, hoa, quả, với vùng Đồng bằng sông Hồng, các tỉnh miền núi không khí trong lành, khí hậu bốn mùa rau hoa quả mùa nào thức đó, có Đà Lạt đang quy hoạch khoảng 362 nghìn ha đất nông nghiệp với độ cao trên 800m, sở hữu tiềm năng trồng rau, quả vô cùng lớn. Nếu được đầu tư thích đáng, Việt Nam hoàn toàn có thể là “Hà Lan” của khu vực châu Á về ngành hàng rau, hoa quả trong tương lai./.

Nguồn: vov.vn

Chuyên mục
Nông nghiệp 4.0

Cỗ máy làm nông biết trồng trọt và thu hoạch một cách tự động

Với cỗ máy làm nông tự động, giờ đây người nông dân không cần phải cực khổ gieo trồng, tưới nước, xịt thuốc nữa. Mọi công việc đã có máy móc lo.

Các kỹ sư đang làm việc với nhau để chế tạo ra cỗ máy tuyệt vời, gánh vác hết phần nặng nhọc nhất trong công việc trồng trọt của một nông dân. Giờ đây, những bác nông dân chỉ cần đem nông sản đi bán và thu tiền về.

Cỗ máy có hình dạng như một chiếc xe lớn với nhiều bánh xe, có thể tính toán chính xác và tiến hành hết các bước để trồng được một cây nông sản. Từ xới đất, gieo hạt, bón phân, tưới nước, trừ sâu bệnh, rồi thu hoạch, phân loại thành phẩm.


Những cỗ máy làm nông sẽ đảm trách hết các công việc của một người nông dân trên cánh đồng. (Ảnh: Harper Adams University).

Theo tình hình chung hiện nay, có đến 60% nông sản bị bỏ đi một cách lãng phí vì nó còn xanh hoặc quá chín vào ngày thu hoạch chung trên cả cánh đồng. Cỗ máy này được sinh ra để khắc phục vấn đề đó, nó tính được chính xác ngày nào sẽ thu hoạch, đảm bảo cây trái chín đúng nhất khi hái.

Giáo sư Simon Blackmore, trưởng nhóm robot nông nghiệp tại Đại học Harper Adams ở Shropshire và là giám đốc ở Trung tâm Quốc gia về Canh tác, cho biết ông rất mong chờ được nhìn thấy cánh đồng được trông nom bởi những cỗ máy vào năm 2020.

“Chúng tôi đang nỗ lực để phát triển hệ thống cơ giới hóa nông nghiệp một cách hoàn chỉnh dựa trên những cỗ máy này. Những chiếc xe máy này có thể diệt cỏ bằng laser, tưới nước nhỏ giọt, phun thuốc trừ sâu đúng mục tiêu chứ không ảnh hưởng đến nông sản, thu hoạch có chọn lọc, phân loại sản phẩm vào từng nhóm và từng giai đoạn thu hoạch”, ông cho biết tại một cuộc họp báo ở Luân Đôn.

“Những nỗ lực này được bắt đầu nhằm giảm bớt khó khăn cho nền nông nghiệp cơ giới hóa một phần ở Anh Quốc hiện nay. Có khoảng từ 20 đến 60 phần trăm nông sản bị bỏ đi do thu hoạch không đúng thời điểm, gây nên sự lãng phí lớn nếu xét trên thời gian dài”.

“Người tiêu dùng khi mua rau củ ở siêu thị, họ sẽ có tâm lý chọn những bó rau hoặc quả củ tươi và đẹp nhất, những nông sản bị bỏ lại lâu ngày sẽ bị siêu thị tiêu hủy. Giờ đây, những xe robot này có thể tính toán được giờ thu hoạch và sẽ thu hoạch nhiều đợt để đảm bảo cây trái hái ra đều chín đều và tươi để được bán đi trong ngày”, ông cho biết thêm.

Công nghệ mới này được kỳ vọng sẽ cắt giảm lượng hóa chất sử dụng trong nông nghiệp ở nước Anh và thay thế được lượng lao động rất lớn có thể bị giảm mất sau khi nước Anh rời khỏi Liên minh Châu Âu.

Theo khampha

Chuyên mục
Làm bánh Nông nghiệp 4.0

Công nghệ bảo quản Nhật Bản: Giúp rau quả tươi 20 ngày

Công nghệ chiết xuất Polyphenol từ hạt của trái nho góp phần giúp kéo dài thời gian bảo quản rau quả vừa được Trường Đại học Tohoku (Nhật Bản) giới thiệu đến Việt Nam.

Giúp táo tươi 250 ngày

Được cho là ứng dụng công nghệ sinh học mới trong công tác bảo quản nông sản sau thu hoạch (STH), Giáo sư Jiro Kanto  của Trường Đại học Tohoku cho biết, polyphenol có tác dụng chống oxy hóa, kháng khuẩn, khử mùi nên sẽ giúp ức chế quá trình tự hoại bên trong rau quả. Bằng cách in, tẩm hoạt chất này vào màng vải, bọc nhựa PP hoặc thùng carton, polyphenol sẽ phát huy hiệu quả khi tiếp xúc trực tiếp thực phẩm hoặc bay hơi xung quanh môi trường bảo quản.

Viện Nghiên cứu rau quả T.Ư cho biết, yếu tố quan trọng đặt ra đối với ngành nông nghiệp hiện nay để chống tổn thất sau thu hoạch là triển khai đồng bộ các giải pháp: Quy hoạch vùng nguyên liệu, đầu tư công nghệ, máy móc thiết bị từ khâu thu hái đến bảo quản. Trước mắt, cần xây dựng hệ thống kho dự trữ hiện đại, bảo đảm tiêu chuẩn quốc tế để có chất lượng nông sản tốt nhất, giảm tổn thất sau thu hoạch. Ngoài ra, các thiết bị lưu chuyển nông sản trên thị trường cũng cần được tăng cường để bảo đảm chất lượng tốt sau một chặng đường dài vận chuyển.

Từ thử nghiệm và ứng dụng thực tế, công nghệ này giúp các loại thực phẩm như nấm, đậu, salat và các loại trái cây kéo dài thời gian tươi lâu từ 15 – 20 ngày. Thử nghiệm trên trái táo, polyphenol giúp thời gian bảo quản kéo dài 250 ngày, tỷ lệ hư hỏng 50%. Một số tác động sinh hóa thúc đẩy enzim còn giúp tăng lượng đường trong trái lê lên 1,5%. Cùng với các điều kiện đi kèm như phương thức canh tác, nhiệt độ bảo quản, ông Jiro Kanto cho biết các túi bảo quản này đã được các phi hành gia Nhật Bản sử dụng để lưu trữ thực phẩm trên các trạm vũ trụ.

Công nghệ này được thương mại hóa thông qua Công ty Okadaeco và Mikieco tại Việt Nam. Các doanh nghiệp (DN) này cũng khuyến cáo hiệu quả sử dụng tốt nhất là 1 lần, đúng kích cỡ bao và quy trình kỹ thuật bảo quản. Vì loại màng vải có giá thành cao nên sản phẩm bọc nhựa PP có in tiền chất polyphenol bên trong được rất nhiều DN, nông dân có mặt tại buổi giới thiệu tổ chức mới đây ở TP.HCM bày tỏ quan tâm.

Một DN kinh doanh mãng cầu ở Tây Ninh cho biết, giải pháp này rất tốt, nhưng phải tính toán lại về hiệu quả kinh tế. “Họ tính giá thành trên đơn vị từng bao đựng, chứ không phải tính theo kg. Phải có số lượng đơn hàng, chủng loại sản phẩm cụ thể họ mới báo giá được”.

Bà Nguyễn Bích Nam – Phó Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ DN vừa và nhỏ TP.HCM cho rằng công nghệ này góp thêm một giải pháp cho công tác bảo quản STH. “Tuy nhiên, đối với các DN xuất nhập khẩu thì phải kiểm nghiệm thêm vì thời gian vận chuyển, thủ tục thông quan thường kéo dài. Nhiều DN trong nước xuất khẩu gạo đi Canada đã có thời hạn bảo quản và sử dụng 2 năm. Trong khi công nghệ này chỉ giúp kéo dài thời gian bảo quản trong 6 tháng, do đó phải tính toán kỹ mới áp dụng được”.

Khó triển khai vì quy mô sản xuất nhỏ

Thạc sĩ Vũ Thị Quyền (Trung tâm Nghiên cứu và tư vấn nông nghiệp nhiệt đới) cho biết, công nghệ STH ở Việt Nam hiện nay chỉ ở mức dưới trung bình, dẫn đến nông phẩm không có thương hiệu, chủ yếu phải xuất khẩu ở dạng thô, khiến giá trị gia tăng thấp.

Tại Việt Nam, trung bình tổn thất STH đối với cây có hạt là 10%, đối với cây củ 10 – 20% và đối với rau quả là 10 – 30%. Năm 2015, tổn thất STH là khoảng 21 triệu tấn trên tổng lượng rau quả. Nguyên nhân do khâu đóng gói lưu kho, nấm mốc ký sinh trùng, dịch bệnh do môi trường khí hậu, quá trình xử lý STH chưa được chú trọng. Vì vậy các công nghệ bảo quản các loại rau  quả, củ… là vô cùng quan trọng, giúp giảm được hiện tượng “mất mùa trong nhà”, giảm tổn thất về số lượng và chất lượng, góp phần duy trì chất lượng nông sản.

Ông Nguyễn Đình Hậu – Vụ trưởng Vụ Khoa học- Công nghệ các ngành kinh tế, kỹ thuật (Bộ Khoa học- Công nghệ) chia sẻ: “Hiện đã có một số hoạt động nghiên cứu công nghệ STH trong bảo quản lúa gạo, chế biến nông sản. Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu khi triển khai ra ngoài thực tiễn với điều kiện canh tác theo quy mô nhỏ, thiếu quy hoạch như hiện nay thì việc ứng dụng công nghệ khá khó khăn”. Thực tế, đã có một số nơi đang áp dụng những công nghệ bảo quản nông sản như: Công nghệ chiếu xạ, công nghệ bao gói khí điều biến (MAP), công nghệ bảo quản bằng chế phẩm tạo màng phủ…

Tuy nhiên, những công nghệ hiện đại này mới chỉ là số ít và thực hiện lẻ tẻ tại một số địa phương. Các sản phẩm nông sản chủ lực sau khi thu hoạch, ngoài số lượng được người dân xuất bán ngay, số còn lại chủ yếu vẫn được bảo quản sơ sài theo phương pháp truyền thống như thu hoạch xong đóng bao bán ngay hay phơi khô đựng vào bao chứa trong nhà…

Nguồn: Dân Việt

Chuyên mục
Nông nghiệp 4.0

Dự án trồng rau trong container giữa lòng New York của em trai Elon Musk

Kimbal Musk, em trai tỷ phú lừng danh Elon Musk, đang phát triển một nông trang bằng những chiếc thùng container giữa lòng thành phố New York, Mỹ với tham vọng thay đổi phương thức ăn uống truyền thống.

Gọi mô hình mình đang theo đuổi là cuộc cách mạng thực phẩm”, Kimbal Musk đang nỗ lực làm thay đổi phương thức sử dụng đồ ăn của mọi người. Quản lý 2 chuỗi nhà hàng, Kimbal Musk luôn sử dụng thực phẩm được chế biến theo hương vị truyền thống để phục vụ khách hàng. Từ năm 2011, chương trình phi lợi nhuận của ông đã lắp đặt Những khu vườn học tập ở hơn 300 trường học nhằm dạy trẻ em về nông nghiệp.

Đầu tháng 10 năm ngoái, Kimbal Musk và cộng sự ra mắt Square Roots, một nông trang nằm giữa Brooklyn, New York. Sử dụng 10 chiếc container, Kimbal Musk và đồng nghiệp tạo ra nông trang giữa lòng thành phố sầm uất.

Trên bốn bức tường song song bên trong một chiếc container là cây xanh đang nảy mầm. Nguồn nước đầy đủ dinh dưỡng và những chiếc đèn màu xanh lam và hồng đảm bảo cho cây cối phát triển.

Cây cối được canh tác theo phương thức này phát triển bình thường so với phương pháp canh tác truyền thống.

Kimbal Musk và đồng nghiệp cũng đang chuyển giao công nghệ canh tác cho những người muốn phát triển kinh doanh theo phương pháp này, bao gồm cả những người chưa từng một lần tiếp xúc với công việc đồng áng.

Trung bình, mỗi ngày nông trang này dùng khoảng 30 lít nước để trồng cây, thấp hơn nhiều so với lượng nước sử dụng của một gia đình.

Nước, nhiệt độ và cả lượng oxy trong nông trang đều được kiểm soát, giúp đảm bảo chất lượng rau khi thu hoạch.

Rau thành phẩm được đóng gói trước khi chuyển tới các điểm phân phối phục vụ người tiêu dùng.

Các nhà sáng lập kỳ vọng Square Roots sẽ được triển khai ở 20 thành phố trong giai đoạn từ nay tới năm 2020.

Sau khi kỷ nguyên công nghệ bùng nổ những năm 1990, anh em là Musk chuyển từ Nam Phi tới Thung lũng Silicon. Họ sáng lập X.com, dự án sau này được hợp nhất với PayPal trước khi được eBay mua lại. Trồng rau chỉ là một trong số hàng loạt dự án mà Kimbal Musk theo đuổi.

Theo Trí Thức Trẻ