Chuyên mục
CÂU CHUYỆN VÀ NHÂN VẬT OCOP Việt Nam

Nông nghiệp Hà Giang: Sản phẩm OCOP và truyền thống dân tộc

Hà Giang nằm ở vùng miền núi biên giới phía Bắc với địa hình phức tạp, tạo ra các vùng khí hậu đặc biệt cho nền nông nghiệp địa phương. Các sản phẩm OCOP đặc trưng từ nông nghiệp ở Hà Giang đã thu hút sự quan tâm của cả người tiêu dùng và du khách.

tra-dat-ocop-ha-giang

Để khai thác tiềm năng và ưu thế của nông nghiệp địa phương, tỉnh Hà Giang đã tập trung phát triển sản phẩm OCOP thông qua việc áp dụng tiêu chuẩn VietGAP và phương pháp nông nghiệp hữu cơ. Nhờ sự nỗ lực này, trong thời gian gần đây, sản phẩm OCOP của Hà Giang đã thu hút sự quan tâm của người tiêu dùng trong nước và cả du khách.

Đồng thời, việc mở rộng sản xuất các sản phẩm OCOP tại các khu vực dân tộc đã đóng góp không nhỏ vào việc tăng cường kiến thức và tăng thu nhập cho người nông dân, đồng thời cũng góp phần quan trọng vào quá trình giảm nghèo và thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.

Để tạo ra các sản phẩm OCOP đặc trưng từ nguồn gốc nông nghiệp, Hà Giang đã tận dụng và phát huy những phương pháp độc đáo trong nông nghiệp của các dân tộc thiểu số. Một số ví dụ có thể kể đến như việc trồng ngô trong các hố đá để sản xuất rượu ngô men lá, sử dụng hạt của cây hoa Tam giác mạch để tạo ra loại rượu đặc sản chỉ có ở vùng cao nguyên đá, nuôi ong để thu hoạch mật hoa cây bạc hà tự nhiên và chế biến thủ công, cũng như thưởng thức chè Shan tuyết của các dân tộc Dao, Nùng, Pà Thẻn, Lô Lô tại các huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần. Ngoài ra, còn có việc nuôi cá chép trong ruộng bậc thang để tăng thu nhập và phục vụ du lịch tại huyện Hoàng Su Phì, cũng như tập quán chăn thả và nuôi dưỡng bò vàng của dân tộc Mông tại các huyện cao nguyên đá như Đồng Văn. Các đặc điểm độc đáo này đã được các cơ quan chức năng tại Hà Giang khai thác để phát triển các sản phẩm OCOP đặc thù của địa phương.

Hà Giang được biết đến với một số sản phẩm OCOP đặc trưng có nguồn gốc từ nông nghiệp, bao gồm cam sành (trồng ở 3 huyện Bắc Quang, Quang Bình, và Vị Xuyên), mận Máu ở huyện Hoàng Su Phì, mật ong Bạc hà ở huyện Yên Minh và huyện Mèo Vạc, cùng các loại chè Shan tuyết và Shan tuyết cổ thụ tại các huyện vùng cao, cũng như bò Vàng ở 4 huyện cao nguyên đá Đồng Văn và cá chép ruộng ở Hoàng Su Phì.

Từ các đặc điểm tự nhiên và phương pháp canh tác độc đáo trong nông nghiệp, Hà Giang đã tạo ra các sản phẩm OCOP đặc thù, phong phú văn hóa ẩm thực. Điều này đã tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các sản phẩm OCOP như hàng hóa. Mặc dù trong thời gian gần đây, các sản phẩm OCOP ở Hà Giang đã được phát triển thông qua các phương pháp nông nghiệp độc đáo, tuy nhiên, phần lớn du khách đến đây vẫn chỉ dừng lại ở việc tham quan, chụp ảnh mà chưa có cơ hội trải nghiệm các hoạt động hàng ngày của người dân địa phương, như cày nương trên đất đá, canh tác trên các thửa ruộng bậc thang, hay tham gia thu hoạch, chế biến và thưởng thức chè Shan hữu cơ. Việc này đã khiến cho tiềm năng du lịch và phát triển các sản phẩm OCOP của Hà Giang chưa được khai thác hết.

ga-dat-ocop

Nhằm tạo ra cơ hội kinh doanh và cải thiện thu nhập cho cộng đồng dân tộc thiểu số, Hà Giang đã tập trung phát triển các sản phẩm OCOP độc đáo trong nông nghiệp, đồng thời thúc đẩy hình ảnh du lịch xanh, góp phần bảo vệ môi trường và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Trong thời gian qua, tỉnh đã xác định mục tiêu phát triển các sản phẩm OCOP liên kết chặt chẽ với các chương trình phát triển kinh tế – xã hội địa phương, mang lại hiệu quả và bền vững.

Theo ông Đỗ Tấn Sơn, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp – Phát triển nông thôn, cũng là Chủ tịch Hội đồng phân hạng sản phẩm OCOP tỉnh Hà Giang, trong thời gian qua, các sản phẩm OCOP đặc thù có nguồn gốc từ nông nghiệp đã trở thành hàng hóa phổ biến và có sức tiêu thụ mạnh mẽ trên thị trường cả trong và ngoài tỉnh. Để tiếp tục nâng cao chất lượng các sản phẩm OCOP, cũng như tất cả các sản phẩm liên quan đến nông nghiệp, ngành Nông nghiệp tỉnh Hà Giang đã chú trọng vào việc khai thác tiềm năng và ưu thế để phát triển bền vững và nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó phục vụ tốt hơn cho nhu cầu tiêu dùng và thúc đẩy du lịch của địa phương.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
Báo cáo chính sách NÔNG NGHIỆP 360

Báo cáo thị trường cà phê tháng 2/2023

I . Thị trường cà phê thế giới.

1. Sản xuất

Lo ngại về thiếu hụt nguồn cung cà phê do tình hình thời tiết không thuận lợi tại Brazil cùng báo cáo tồn kho giảm đã tạo ra tác động tích cực đáng kể lên thị trường cà phê toàn cầu trong tháng 2. Giá cà phê arabica trên sàn New York đã phục hồi gần đây, nhưng vẫn thấp hơn thị trường nội địa Brazil. Lượng tồn kho đã giảm sau hai vụ mùa yếu kém, khiến người nông dân không muốn bán ra ở mức giá hiện tại. Do đó, các thương nhân quốc tế đang tìm kiếm nguồn cung cấp cà phê với giá gần với giá tương lai trên sàn New York.

Theo Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO), dự trữ cà phê arabica trên sàn New York đã giảm 5%, nhưng dự trữ robusta tăng 13,8%. Reuters dự đoán thiếu hụt cung cà phê thế giới có thể khoảng 4,15 triệu bao. Xuất khẩu cà phê toàn cầu giảm 2,8% trong 3 tháng đầu niên vụ hiện tại. ICO dự báo sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2022-2023 giảm 2,1%, trong khi tiêu thụ dự kiến ​​tăng 3,3%. Sản lượng niên vụ cà phê của Việt Nam giảm 10-15% do người dân chuyển đổi cây trồng.

Ở Colombia, tổng sản lượng cà phê giảm 10% trong 12 tháng tính đến tháng 1/2023. Tại Peru, thời tiết không thuận lợi và tình hình chính trị bất ổn đang ảnh hưởng đến xuất khẩu cà phê.

2. Tiêu thụ

ICO cho biết xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 1 giảm 10,2% so với tháng trước và giảm 13,9% so với cùng kỳ năm 2022. Trong 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023, xuất khẩu cà phê toàn cầu giảm 6% so với cùng kỳ niên vụ trước, xuống còn 39,9 triệu bao. Cà phê nhân xanh chiếm gần 90% xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 1, với khối lượng đạt 10,2 triệu bao, giảm 15% so với cùng kỳ năm trước. Trong giai đoạn từ tháng 10/2022 đến tháng 1/2023, lượng xuất khẩu cà phê nhân xanh đạt 36 triệu bao, giảm 5,4% so với cùng kỳ.

Xuất khẩu cà phê nhân xanh arabica Brazil giảm 17% trong tháng 1 và giảm 0,1% sau 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023, xuống 13,1 triệu bao. Các lô hàng arabica khác giảm 18% trong tháng 1 và đạt 5,1 triệu bao sau 4 tháng đầu niên vụ cà phê 2022-2023, giảm 18%.

Xuất khẩu cà phê arabica Colombia giảm mạnh nhất với 20,9% trong tháng 1 và 15,9% trong 4 tháng đầu niên vụ hiện tại, xuống 3,7 triệu bao.Trong tháng 1, lượng xuất khẩu cà phê robusta giảm 10,1%, trong khi trong 4 tháng đầu của niên vụ 2022-2023 giảm 1,4%, đạt gần 14 triệu bao.

bieu-do-motTrong tháng 1 vừa qua, lượng xuất khẩu cà phê hòa tan giảm 3%, chỉ còn đạt 0,9 triệu bao. Tính đến sau 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023, xuất khẩu cà phê hòa tan trên thế giới đã giảm 11,2% so với niên vụ trước đó, chiếm khoảng 10,1% trong tổng lượng xuất khẩu cà phê toàn cầu. Tương tự, xuất khẩu cà phê rang xay cũng giảm 9% trong tháng 1, chỉ đạt 61.683 bao. Tính đến sau 4 tháng, khối lượng cà phê rang xay được xuất khẩu trên toàn cầu đã giảm xuống còn 278.977 bao so với cùng kỳ năm trước.

bieu-dp-2

Trong tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê khu vực Nam Mỹ giảm 19,9% xuống 3,9 triệu bao, do sự giảm của Brazil, Colombia và Peru lần lượt là 16%, 18,8% và 63,9%. Colombia chịu ảnh hưởng từ hiện tượng La Niña, trong khi Peru gặp khó khăn do thời tiết và tình hình chính trị không ổn định. Sự sụt giảm ở Peru cũng có liên quan đến việc sản lượng xuất khẩu tháng 1/2022 tăng đột biến, vượt qua mức trung bình của 6 năm qua.bieu-do-3

 

Trong tháng 1, khu vực châu Á và châu Đại Dương ghi nhận giảm xuất khẩu cà phê 17,2% và 3,3% trong 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023. Việt Nam, Ấn Độ và Indonesia, các quốc gia hàng đầu trong khu vực, đều trải qua sự sụt giảm đáng kể. Ngược lại, khu vực châu Phi đã tăng trưởng 19,5% và 1,4% tương ứng trong tháng 1 và 4 tháng đầu niên vụ, với Uganda dẫn đầu với sự phục hồi sau chuỗi suy giảm kéo dài 12 tháng. Ở khu vực Trung Mỹ và Mexico, xuất khẩu cà phê giảm 5% trong tháng 1 và 11,4% trong 4 tháng, nhưng Honduras và Mexico đều ghi nhận xu hướng tăng do nguồn cung dồi dào và cao điểm thu hoạch.

3. Diễn biến giá

Chỉ số giá cà phê tổng hợp (I-CIP) theo dõi bởi ICO đã tăng 11,4% trong tháng 2, đạt mức bình quân 174,8 UScent/pound, với mức giá dao động từ 169,5 đến 183,9 UScent/pound.

bieu-do-4

Trong tháng 2, giá cà phê robusta và arabica tiếp tục tăng mạnh do lo ngại về thiếu hụt nguồn cung trong ngắn hạn. Đồng thời, việc đồng real tăng giá trị so với đồng USD ở đầu năm đã giới hạn người trồng cà phê tại Brazil từ việc bán ra, đồng thời đẩy giá cà phê tăng cao hơn. Đến ngày 28/2, giá cà phê robusta giao trong tháng 5 đã tăng 10% so với tháng trước, lên mức 2.121 USD/tấn.

B-do-5

Giá cà phê arabica giao trong tháng 5 cũng tăng 15% lên 190 UScents/pound.

B-D-64. Dự báo

Dự kiến giá cà phê sẽ giảm do thông tin tiêu cực từ thị trường tài chính và Fed thì tăng lãi suất liên tục. Sự sụp đổ của ngân hàng SVB cũng gây áp lực tiêu cực đối với tâm lý người mua. Mặt khác, dự kiến cung cà phê từ Indonesia sẽ tăng do vụ thu hoạch mới, trong khi xuất khẩu của nhiều quốc gia đang giảm, giúp giảm đà tăng giá. Tuy nhiên, trong tương lai, tình trạng thiếu hụt cà phê có thể làm tăng giá do nhiều quốc gia gặp khó khăn với nguồn cung.

II . Chuyển biến thị trường cà phê Việt

1. Sản xuất 

Dự báo sản lượng cà phê cho niên vụ 2022-2023 sẽ giảm khoảng 10-15% so với niên vụ trước, xuống khoảng 1,47 triệu tấn. Nguyên nhân chính là do diện tích trồng cà phê giảm, khi người dân chuyển sang trồng các cây trồng khác. Hiện diện tích cà phê của Việt Nam vào năm 2022 là 710.000 ha, với sản lượng hơn 1,84 triệu tấn. Các tỉnh Tây Nguyên chiếm phần lớn về diện tích và sản lượng cà phê của cả nước, với Gia Lai đang hướng tới ổn định diện tích 100.000 ha, áp dụng công nghệ tưới tiêu tiên tiến. Đắk Nông, tỉnh chiếm 23% diện tích cà phê cả nước, ghi nhận tổng diện tích 139.932 ha và tổng sản lượng 356.612 tấn cà phê vào cuối năm 2022. Tuy nhiên, ngành cà phê Việt Nam đối diện nhiều thách thức như cân cầu cà phê, sự thịnh vượng của người trồng, trách nhiệm giải trình, tiêu dùng nội địa, biến đổi khí hậu và quy định mới từ các nước nhập khẩu. Đắk Lắk, thủ phủ cà phê của Việt Nam, đang phải đối mặt với các vấn đề như biến đổi khí hậu, diện tích sản xuất hạn chế, khai thác đất quá mức, và thiếu chế biến sâu.

2. Tiêu thụ 

Theo Tổng cục Hải quan, trong tháng 2, Việt Nam xuất khẩu cà phê đạt 200.056 tấn, trị giá 435 triệu USD, tăng 40% so với tháng trước. Tuy nhiên, trong 2 tháng đầu năm, xuất khẩu cà phê giảm 7,8% về lượng và 9,5% về trị giá, đạt 342.352 tấn và 745,3 triệu USD. Giá xuất khẩu bình quân của cà phê trong 2 tháng đầu năm là 2.177 USD/tấn, giảm nhẹ 2% so với cùng kỳ năm trước.  

B-D-7Mặc dù giá cà phê đang ở mức cao, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang nhiều thị trường lớn vẫn duy trì xu hướng tích cực. Liên minh châu Âu (EU) tiếp tục là thị trường tiêu thụ lớn nhất của Việt Nam, chiếm 41% khối lượng xuất khẩu. Trong đó, xuất khẩu sang nhiều nước trong EU tăng mạnh, nhưng Bỉ lại ghi nhận sự giảm mạnh 42,9%. Ngoài ra, xuất khẩu cà phê sang Mỹ, Nga, Algeria cũng đều tăng đáng kể, cùng với sự gia tăng đáng kể trong việc nhập khẩu cà phê từ Mexico, Indonesia và Ấn Độ.

B-d-8

3. Diễn biến giá 

Trong 2 tháng đầu năm, giá cà phê tại Việt Nam tăng mạnh khoảng 20%, lên mức khoảng 46.700 – 47.100 đồng/kg, đạt mức cao nhất trong 5 tháng trở lại đây và chỉ thấp hơn đỉnh cao 50.700 đồng/kg vào tháng 8 năm trước.

B-d-9

Tình hình thị trường cà phê tăng giá chủ yếu do ảnh hưởng tiêu cực từ sản xuất cà phê tại Brazil do thời tiết xấu. Các nhà đầu tư lớn trên thế giới đã tập trung mua vào để giữ hàng, góp phần đẩy giá cà phê thế giới lên cao hơn và giá cà phê trong nước cũng tăng theo.

4. Dự báo

Trong tháng 2, xuất khẩu cà phê của Việt Nam tăng so với cùng kỳ năm trước, đạt 342.352 tấn, trị giá 745,3 triệu USD, giảm 7,8% về lượng và 9,5% về trị giá. Giá xuất khẩu bình quân cà phê trong 2 tháng đạt 2.177 USD/tấn, giảm nhẹ 2% so với cùng kỳ năm trước. Tình hình này cho thấy nhu cầu cà phê trong ngắn hạn đang yếu, tuy nhiên, doanh nghiệp xuất khẩu lạc quan về tình hình dài hạn, với dự đoán nhu cầu tăng mạnh, đặc biệt nếu tình hình thời tiết xấu tiếp tục ảnh hưởng tới thị trường Brazil.

5. Tăng trưởng nhập khẩu cà phê Việt Nam tại Pháp

Trong 11 tháng năm 2022, Pháp đã tăng nhập khẩu cà phê từ Việt Nam lên 24,5 nghìn tấn, trị giá 58,79 triệu EUR (tương đương 62,11 triệu USD), tăng 23,6% về lượng và 107,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. 

b-d-10

Trong 11 tháng năm 2022, thị phần cà phê của Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu của Pháp từ thế giới đã tăng lên 6,97%, so với 5,22% trong cùng kỳ năm 2021. Lượng nhập khẩu nội khối giảm 5,8% về lượng, nhưng tăng 31,2% về trị giá, trong khi lượng nhập khẩu từ các nước bên ngoài giảm 9% về lượng, nhưng tăng 7,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Giá nhập khẩu bình quân cà phê của Pháp trong 11 tháng năm 2022 đạt mức 7.919 EUR/tấn, tăng 26,2% so với cùng kỳ năm 2021.

BĐ-11

III . Hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành

  • Cổ phiếu CFV của CTCP Cà phê Thắng Lợi: đã tăng trần liên tục trong 14 phiên, đẩy giá từ 8.600 đồng/cp lên 67.600 đồng/cp, trước khi điều chỉnh về 63.700 đồng/cp vào ngày 13/3. Đây không phải lần đầu tiên cổ phiếu này gây chú ý với việc tăng mạnh, khi năm 2022 đã tăng 21 lần chỉ trong một tháng. công ty đã phải lên tiếng về việc tăng giá cổ phiếu, bác bỏ việc có sự can thiệp từ các cá nhân lợi dụng lỗ hổng thị trường.
  • Giám đốc Công ty Cà phê Thuận An, ông Lê Văn Một, đã mua vào 1.700 cổ phiếu TAN để tăng tỷ lệ sở hữu lên 0,11% vốn điều lệ vào ngày 16/2. Ông Một cũng đăng ký mua thêm 174.900 cổ phiếu TAN thông qua thỏa thuận và khớp lệnh từ 2/3 đến 24/3. Trong khi đó, Kế toán trưởng, bà Lê Thị Định, dự kiến bán ra 1.700 cổ phiếu vào thời điểm 15/2 – 16/3 để giải quyết tài chính cá nhân. Ngày 16/3 cũng là ngày cuối cùng để đăng ký tham dự ĐHĐCĐ thường niên năm 2023 của công ty tại tỉnh Đắk Nông. Thời gian và tài liệu họp vẫn chưa được công bố.

 

Cà phê Petec (Mã: PCF) sẽ tổ chức ĐHĐCĐ thường niên năm 2023 vào ngày 27/3 tại quận 3, TP HCM. Đơn từ nhiệm của ông Nguyễn Thanh Hải, Thành viên HĐQT, đã được công ty nhận được trước thềm ĐHĐCĐ.

CTCP VinaCafé Biên Hòa (Mã: VCF) dự định tổ chức ĐHĐCĐ thường niên năm 2023 trong tháng 4. Ngày đăng ký cuối cùng là 8/3, ngày giao dịch không hưởng quyền là 7/3.

Cà phê Gia Lai (Mã: FGL) sẽ tổ chức ĐHĐCĐ thường niên trong tháng 4 tại tỉnh Gia Lai. Ngày chốt danh sách cổ đông tham dự là 9/3, ngày giao dịch không hưởng quyền là 8/3. Công ty dự kiến trình cổ đông kế hoạch kinh doanh năm 2023 và bầu mới nhân sự cho nhiệm kỳ 2023 – 2028.

Cà phê Phước An (Mã: CPA) dự kiến tổ chức ĐHĐCĐ thường niên năm 2023 vào ngày 21/4 tại Đắk Lắk. Ngày đăng ký cuối cùng để chốt quyền tham dự là 24/3, ngày giao dịch không hưởng quyền là 23/3.

VI . Sự kiện ảnh hưởng đến thị trường cà phê

Tác động của quyết định tăng lãi suất của Fed đến thị trường cà phê

Theo dự báo, cuộc họp dự kiến của Fed trong tuần 3 tháng 3 sẽ không có tăng lãi suất do sự sụp đổ của Ngân hàng Thung lũng Silicon (SVB). Dự kiến này từ Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs cho thấy tâm lý của thị trường có thể được giải toả và giá cà phê có thể nhận động lực tăng trưởng nếu không có sự điều chỉnh lãi suất từ Fed. Tuy nhiên, nếu lãi suất vẫn tiếp tục tăng, thị trường cà phê có thể phải đối mặt với áp lực tiếp tục trong tương lai.

Nguồn: VietnamBiz

Chuyên mục
Hạt ( tiêu, điều, mắc ca ... ) XUẤT NHẬP KHẨU

Trung quốc nhập khẩu mạnh hạt điều Việt Nam

Tháng 9 vừa qua, Trung Quốc mua hạt điều Việt với số tiền gấp đôi so với cùng kỳ năm trước, chứng tỏ sức hấp dẫn của nông sản Việt trên thị trường này.

Xuất khẩu hạt điều của Việt Nam tăng mạnh trong năm 2023

Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, tháng 9/2023, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 56,8 nghìn tấn hạt điều, thu về 310 triệu USD, tăng mạnh 47,6% về lượng và tăng 31,8% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.

Trong 9 tháng đầu năm nay, lượng hạt điều xuất khẩu đạt 452.600 tấn, trị giá 2,59 tỷ USD, tăng 18,8% về lượng và tăng 13,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Giá bình quân xuất khẩu hạt điều đạt 5.722 USD/tấn, giảm 4,5% so với cùng kỳ năm trước. Hạt điều hiện đang chiếm vị trí thứ ba về tăng trưởng trong “câu lạc bộ xuất khẩu tỷ USD” của ngành nông nghiệp, chỉ sau ngành rau quả và gạo.

Trong tháng 9, việc xuất khẩu hạt điều đến các thị trường truyền thống và tiềm năng đã tăng đáng kể, đạt mức tăng 2-3 con số so với cùng kỳ năm 2022.

Thị trường Trung Quốc vượt Mỹ trở thành thị trường lớn nhất của hạt điều Việt Nam

Trung Quốc đã vượt qua Mỹ để trở thành thị trường lớn nhất của hạt điều Việt Nam. Giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc trong tháng này đạt 73,2 triệu USD, tăng 107,6% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, xuất khẩu hạt điều đến Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất cũng tăng mạnh 186,4%.

cho-dieu

Sự tăng trưởng đột biến của xuất khẩu hạt điều đến Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất

Cho đến cuối tháng 9 năm 2023, việc xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh đến tất cả các thị trường, trừ Úc. Một số điển hình là xuất khẩu đến Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất tăng mạnh nhất, đạt 57,1% so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu vẫn chỉ ở mức khiêm tốn, đạt 65 triệu USD.

hat-dieu-xuat-khau

Thị trường Trung Quốc đã ghi nhận tăng trưởng 42,3%, với kim ngạch xuất khẩu hạt điều của Việt Nam đạt 433,8 triệu USD, xếp sau Mỹ.

Theo chu kỳ, hoạt động xuất khẩu hạt điều của Việt Nam dự kiến sẽ rất sôi động trong những tháng cuối năm, do nhu cầu tiêu thụ tăng cao trong các dịp lễ, Tết. Sự tăng trưởng mạnh mẽ trong xuất khẩu hạt điều đến Trung Quốc dự kiến sẽ đóng góp vào tốc độ tăng trưởng tổng thể của ngành này.

Nguồn: VINACAS

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Việt Nam cảnh báo về tình trạng dư thừa sản lượng sầu riêng trong nước.

Theo báo cáo gần đây của tờ báo trực tuyến VnExpress, diện tích trồng sầu riêng tại Việt Nam đã mở rộng lên đến 131.000 hecta, với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm trung bình là 24,5%, cao nhất trong số các loại cây chính của đất nước. Mặc dù bắt đầu trồng muộn hơn so với các vùng khác, khu vực Tây Nguyên đã vươn lên trở thành khu vực trồng sầu riêng lớn nhất của đất nước với gần 70.000 hecta, tiếp theo là Đồng Bằng Sông Cửu Long, khu vực Đông Nam Bộ và vùng ven biển miền Trung.

Thách thức mở rộng nhanh chóng

Ông Vũ Đức Côn, phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Đắk Lắk thuộc vùng Tây Nguyên, cho biết diện tích trồng sầu riêng của tỉnh hiện đã vượt quá 28.600 hecta và dự kiến sẽ nhanh chóng đạt đến 30.000 hecta trong những năm tới. Sự mở rộng nhanh chóng đáng kể này đã gây ra lo ngại về việc phát triển bền vững của ngành công nghiệp sầu riêng tại Đắk Lắk.

Sự phát triển đáng lo ngại tại Đắk Lắk và Lâm Đồng

Các cơ quan chức năng ở tỉnh kế cận Lâm Đồng cũng đã đưa ra cảnh báo tới các nông dân với cùng lý do. Diện tích trồng sầu riêng của tỉnh này hiện đã đạt khoảng 19.700 hecta, tăng hơn 6.000 hecta so với năm 2021. Dự kiến Lâm Đồng sẽ sản xuất 115.000 tấn sầu riêng trong năm nay và đạt 225.000 tấn mỗi năm vào năm 2027.

mui-sau-rieng

Ở các vùng phía Tây của Việt Nam, nhiều hecta lúa và khu vườn dứa đã được thay thế bằng vườn sầu riêng. Với tất cả sự tăng trưởng nhanh chóng này, chính phủ Việt Nam đã trở nên lo ngại về tình trạng cung cấp sầu riêng có thể quá nhiều. Nguyễn Như Cường, người đứng đầu đơn vị trồng trọt thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đã cảnh báo các nông dân rằng sự mở rộng không kiểm soát và quy mô lớn gần đây có thể dẫn đến các kết quả không thể dự đoán, bao gồm tình trạng cung cấp quá nhiều. Một điểm đáng quan tâm khác là tác động tiềm năng của việc trồng sầu riêng trên đất không phù hợp, có thể làm giảm đáng kể cả năng suất và chất lượng trái cây, gây hại đến uy tín quốc tế của sầu riêng Việt Nam.

Những thách thức trong ngành sầu riêng tại Việt Nam

Hơn nữa, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã nhấn mạnh những thách thức khác trong ngành sầu riêng, bao gồm mối liên kết yếu ớt giữa nông dân và thương nhân, việc xây dựng thương hiệu chưa tối ưu, lao động không đủ trình độ, cơ sở hạ tầng thiếu và cạnh tranh không công bằng.

sau-rieng-tai-vuon

Việt Nam đã đạt được sự cho phép chính thức xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc vào tháng 7 năm 2022. Xuất khẩu nhanh chóng tăng lên, đạt mức 1,5 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm 2023. Đầu tháng 2 năm nay, vào mùa không phải mùa vụ sầu riêng của Việt Nam, giá cửa hàng nông sản tăng lên mức cao kỷ lục từ 150.000 đến 170.000 đồng Việt Nam (6,11-6,92 USD) mỗi kilogram. Hiện nay, tùy thuộc vào loại và chất lượng, giá cửa hàng nông sản của sầu riêng Việt Nam dao động từ 50.000 đến 95.000 đồng (2,04-3,87 USD) mỗi kilogram, vẫn gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái.

Nguồn: Producereport

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Tuần lễ quảng bá ẩm thực Việt Nam với cơ quan ngoại giao quốc tế

Sáng ngày 27/10 tại Hà Nội, Trung tâm Xúc tiến Thương mại Nông nghiệp, Bộ NN&PTNT đã tổ chức lễ khai mạc Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam với các đại sứ quán nước ngoài tại Việt Nam.san-pham-nuoc-mamĐại diện tham dự lễ khai mạc bao gồm Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền El Salvador tại Việt Nam cùng với các đại diện từ các Đại sứ quán và tham tán nước ngoài tại Việt Nam, bao gồm Vương quốc Anh, Nga, Algeria, Pa-na-ma, Be-la-rut, Indonesia và Nam Phi.

Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam với hệ thống cơ quan ngoại giao và tham tán nước ngoài tại Việt Nam đánh dấu một sự kiện quan trọng trong khuôn khổ chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2023. Chương trình tập trung vào các sản phẩm nước mắm và món ăn đặc trưng kết hợp với nước mắm, đặc biệt là mắm truyền thống và các món ẩm thực đặc trưng từ các vùng miền sử dụng nước mắm. Nhiệm vụ của chương trình là quảng bá và tuyên truyền về lịch sử, câu chuyện sản phẩm và quy trình sản xuất của các sản phẩm nước mắm và ẩm thực từ nước mắm Việt Nam, nhằm nâng cao nhận thức về văn hóa và truyền thống đặc biệt của Việt Nam đến khách du lịch trong và ngoài nước. Tuần lễ cũng đóng góp vào việc thúc đẩy thương mại và tạo liên kết trong việc cung cấp và tiêu thụ sản phẩm nước mắm truyền thống và ẩm thực từ nước mắm.

giao-luu-quoc-teVới diện tích trên 1000m2, Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam đã thiết lập nhiều không gian chính để trưng bày và giới thiệu các sản phẩm nước mắm truyền thống cùng gia vị Việt Nam. Sự kiện cũng bao gồm không gian dành riêng để giới thiệu về ẩm thực cùng các món ăn đặc trưng từ các địa phương, liên kết chặt chẽ với sản phẩm nước mắm truyền thống.

Theo Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại nông nghiệp, ông Nguyễn Minh Tiến, trong khuôn khổ của Tuần lễ giới thiệu và kết nối ẩm thực nông sản Việt Nam, nhiều hoạt động đã được tổ chức, bao gồm các buổi toạ đàm và giới thiệu về văn hóa nước mắm và ẩm thực Việt Nam với các đại diện ngoại giao và tham tán nước ngoài tại Việt Nam. Sự kiện cũng bao gồm các talkshow hỏi đáp giữa người tiêu dùng và các chuyên gia, doanh nghiệp, và hợp tác xã về chủ đề nước mắm từ xưa đến nay. Ngoài ra, việc truyền tải và bán hàng cũng được thực hiện thông qua việc livestream quảng bá sản phẩm nước mắm và mắm truyền thống trên nền tảng TikTok Shop.

gioi-thieu-ve-truyen-thong

Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã ra đời từ năm 2018 đến nay, đã thúc đẩy tiềm năng của đất đai và sản vật, tận dụng lợi thế so sánh, đặc biệt là giá trị văn hóa của từng vùng miền. Nhiều sản phẩm OCOP đã thành công trong việc truyền tải những câu chuyện sản phẩm mang tính nhân văn của vùng, từng miền, góp phần thúc đẩy hướng đi về phát triển kinh tế và bảo tồn các nghề truyền thống và giá trị văn hóa đặc trưng.

Thông qua các hoạt động này, việc kết hợp quảng bá và kết nối tiêu thụ nông sản của Việt Nam thông qua văn hoá và ẩm thực sẽ tạo ra một hướng điệu quả và để lại ấn tượng mạnh mẽ đối với người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

Thúc đẩy đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn tại vùng ĐBSCL

Vào ngày 30/10, tại thành phố Cần Thơ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) đã tổ chức một Hội nghị nhằm thúc đẩy việc đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tại vùng ĐBSCL. Tham dự và chủ trì hội nghị là Thứ trưởng Trần Thanh Nam.

Hoi-nghi

Hội nghị cũng thu hút sự tham gia của đại diện từ các bộ, ban, ngành Trung ương cũng như địa phương tại các tỉnh trong vùng ĐBSCL, cùng với đại diện từ một số tổ chức quốc tế, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp, nhà đầu tư và các chuyên gia chuyên về nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, vùng ĐBSCL có vai trò quan trọng trong kinh tế nông nghiệp của cả nước, đóng góp trên 33% tổng sản phẩm quốc nội của ngành nông nghiệp và 30% GDP của khu vực. ĐBSCL cũng dẫn đầu cả nước về sản lượng lúa gạo, thủy sản và trái cây. Nơi này đóng góp 56% sản lượng lúa gạo (tương đương 24,5 triệu tấn), 98% sản lượng cá tra (1,41 triệu tấn) và 60% sản lượng trái cây cả nước (4,3 triệu tấn), cũng như chiếm 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% lượng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.

Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, vùng ĐBSCL vẫn đối mặt với nhiều thách thức trong việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Cơ sở hạ tầng vẫn chưa đồng bộ, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông, thủy lợi, điện và thông tin liên lạc. Trình độ sản xuất của nông dân vẫn còn thấp, và năng suất lao động vẫn chưa cao. Ngoài ra, cơ chế và chính sách khuyến khích đầu tư cũng chưa được đồng bộ và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

Để giải quyết các khó khăn trên, Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích để thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tại vùng ĐBSCL. Nhờ những chính sách này, vào năm 2023, tổng vốn đầu tư vào nông nghiệp tại ĐBSCL đạt khoảng 100.000 tỉ đồng, tăng 15% so với năm 2022. Một số dự án đầu tư lớn bao gồm một nhà máy chế biến gạo với công suất 100.000 tấn mỗi năm tại tỉnh Long An (vốn đầu tư 1.000 tỉ đồng); dự án trồng và chế biến trái cây áp dụng công nghệ cao tại tỉnh Tiền Giang (vốn đầu tư 500 tỉ đồng); và dự án nuôi thủy sản áp dụng công nghệ cao tại tỉnh Cà Mau (vốn đầu tư 200 tỉ đồng).

Tại hội nghị, các đại biểu đã thảo luận và trình bày về chính sách khuyến khích thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn tại ĐBSCL. Họ cũng đề cập đến thách thức và cơ hội liên quan đến việc thúc đẩy đầu tư vào ngành nuôi trồng thủy sản trong vùng ĐBSCL trong bối cảnh hiện tại, cũng như xu hướng đầu tư theo hướng bền vững vào nông nghiệp tại khu vực này.

Các ý kiến tại hội nghị cho thấy, để thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn tại ĐBSCL, cần tập trung vào việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Đây được xem là yếu tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc sản xuất và kinh doanh. Các cấp, ngành và địa phương cần hợp tác để đầu tư xây dựng và nâng cấp hệ thống giao thông, thủy lợi, điện và thông tin liên lạc, đặc biệt là tại các khu, cụm công nghiệp nông nghiệp và thủy sản. Đồng thời, cần nâng cao trình độ sản xuất của nông dân và ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất. Các địa phương cũng cần tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng và minh bạch để thu hút cả các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.

Trong bài phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Trần Thanh Nam đã đề cập đến một số vấn đề cụ thể mà vùng ĐBSCL cần tập trung nghiên cứu và thực hiện. Ông nhấn mạnh về việc tận dụng tối đa tiềm năng của các sản phẩm nông nghiệp từ cây ăn trái, lúa gạo và thủy sản. Thứ trưởng cũng khuyến khích các tỉnh trong vùng triển khai nhanh đề án Phát triển bền vững trên diện tích 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, kết hợp việc giảm phát thải với tăng trưởng xanh tại ĐBSCL, đặc biệt trong vụ lúa đông xuân năm 2023-2023, với diện tích 180.000 ha. Ông cũng nhấn mạnh về việc các doanh nghiệp trong ngành lúa gạo cần chia sẻ lợi ích với nông dân thông qua việc tăng cường liên kết với họ và các hợp tác xã.

Bên cạnh đó, ông cũng đề xuất việc tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng và lĩnh vực logistics, đặc biệt là tại các khu vực tập trung nguyên liệu lớn. Trong đó, ông đề cập đến việc xây dựng kho mát để phân loại, bảo quản và sơ chế nhằm nâng cao chất lượng và ổn định giá thành, từ đó tăng cường sức cạnh tranh cho nông sản xuất khẩu và nâng cao chuỗi giá trị trong ngành hàng này.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
Kiến thức nông nghiệp NÔNG NGHIỆP 360

Mô hình canh tác chè hữu cơ, liên kết chuỗi giá trị ở miền Bắc.

Theo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, trong thời gian gần đây, các dự án khuyến nông Trung ương đã tập trung vào việc sử dụng giống chè mới có ưu điểm và tiềm năng, thúc đẩy sản xuất chè hướng hữu cơ, tạo ra sản phẩm chè an toàn, có khả năng truy xuất nguồn gốc và đạt được chứng nhận về chất lượng, giúp cải thiện sự cạnh tranh trên thị trường nội địa và quốc tế.

tra-xanh

Dự án cải thiện quy trình trồng chè hữu cơ và liên kết giá trị ở Bắc Bộ đã được triển khai trên diện tích 32ha tại bốn tỉnh bao gồm Hà Giang (xã Xuân Minh, huyện Quang Bình), Tuyên Quang (xã Hồng Thái, huyện Na Hang), Lai Châu (xã Mường Khoa, huyện Tân Uyên) và Nghệ An (xã Huồi Tụ, huyện Kỳ Sơn) do Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đảm trách. Dự án đã được triển khai từ năm 2021 đến 2023. Dự án tuân theo quy trình kỹ thuật trồng và thâm canh chè theo tiêu chuẩn hữu cơ được quy định bởi Quyết định số 288/QĐ/MNPB-KH ngày 3/4/2020.

Dự án đã xây dựng thành công bốn mô hình thâm canh chè hữu cơ và liên kết chuỗi giá trị tại bốn tỉnh, gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu và Nghệ An, trên tổng diện tích 32 ha, với sự triển khai 8 ha mỗi năm cho mỗi tỉnh. Dự án đã được thực hiện liên tục trong ba năm tại mỗi mô hình. Ngoài ra, đã xây dựng bốn mô hình quản lý sản xuất và kinh doanh, cũng như liên kết tiêu thụ sản phẩm giữa cộng đồng nông dân và các doanh nghiệp.

Sau một năm thực hiện, theo quá trình theo dõi và đánh giá cũng như so sánh về tình trạng sinh trưởng và năng suất, mô hình thâm canh sản xuất chè theo tiêu chuẩn hữu cơ trong dự án đã cho thấy những kết quả đa dạng tại các tỉnh Lai Châu, Tuyên Quang, Hà Giang và Nghệ An. Tại Lai Châu và Tuyên Quang, năng suất chè của mô hình đã giảm so với sản xuất đại trà, với mức giảm lần lượt là 28,12% (từ 8,2 tấn/ha xuống còn 6,4 tấn/ha) và 23,64% (từ 6,8 tấn/hạ xuống còn 5,5 tấn/ha). Ngược lại, tại Hà Giang và Nghệ An, năng suất chè trong mô hình đã tăng lần lượt là 15,95% (từ 4,20 tấn/ha lên 4,87 tấn/ha) và 11,35% (từ 3,70 tấn/ha lên 4,12 tấn/ha). Nguyên nhân chủ yếu là do phương pháp trồng trọt trước đây tại Hà Giang và Nghệ An đã tạo ra cơ sở tốt cho sự tăng trưởng khi được áp dụng bổ sung dinh dưỡng từ phương pháp hữu cơ. Trái ngược, tại Tuyên Quang và Lai Châu, các hộ tham gia mô hình đã sử dụng phân bón hóa học trước đó để tăng năng suất, khi chuyển sang hữu cơ, chỉ sử dụng phân bón vi sinh, năng suất đã giảm đi.

Hiện tại, tất cả sản phẩm chè từ mô hình đã được tiêu thụ với giá bán trung bình tăng 53,84% so với sản phẩm chè truyền thống. Tổng sản lượng chè tươi thu được từ 32 ha mô hình dự án là 167,12 tấn, đem lại doanh thu tăng lên trong khoảng 20,08% đến 49,08%.

Tính đến thời điểm hiện tại, các tổ chức chứng nhận đang tiến hành các bước đánh giá và giám sát mô hình để chuẩn bị cho việc cấp chứng nhận sản phẩm chè từ mô hình/tỉnh theo tiêu chuẩn hữu cơ vào năm 2023.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
NÔNG NGHIỆP 360 Tin tức sự kiện

FAO: Ước Tính Tác Động Thiên Tai Đối Với Nông Nghiệp

Theo báo cáo mới của FAO, ngành trồng trọt và chăn nuôi trên toàn cầu đã mất khoảng 3,8 nghìn tỷ USD trong vòng 30 năm qua do tác động của thiên tai.

bien-doi-khi-hau

Báo cáo gần đây từ Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO) cho biết trong 30 năm qua, sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi trị giá khoảng 3,8 nghìn tỷ USD đã bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Điều này tương đương với khoảng 123 tỷ USD mỗi năm, hay 5% tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp toàn cầu hàng năm (GDP).

Báo cáo này, mang tựa đề “Tác động của Thiên tai đối với Nông nghiệp và An ninh Lương thực,” cung cấp ước tính toàn cầu đầu tiên về tác động của thiên tai đối với sản xuất nông nghiệp, tập trung vào việc canh tác và chăn nuôi. Báo cáo nhấn mạnh rằng con số này có thể cao hơn nếu có hệ thống dữ liệu về tổn thất trong ngành thủy sản, nuôi trồng thủy sản và lâm nghiệp. Do đó, báo cáo đề xuất cần cải thiện dữ liệu và thông tin về tác động của thiên tai đối với tất cả các ngành nông nghiệp để xây dựng các hệ thống dữ liệu có thể hỗ trợ việc ra quyết định và thực hiện các biện pháp hiệu quả.

Theo báo cáo, trong ba thập kỷ qua, thiên tai – được xác định là những rối loạn nghiêm trọng trong hoạt động của một cộng đồng hoặc xã hội – đã gây ra tổn thất cao nhất cho các quốc gia có thu nhập trung bình thấp và thấp, lên đến 15% GDP nông nghiệp. Thiên tai cũng ảnh hưởng đáng kể đến các quốc đảo nhỏ đang phát triển (SIDS), với tổn thất gần 7% GDP nông nghiệp.

Tổn thất theo nhóm sản phẩm trong nông nghiệp

Theo báo cáo, tổn thất liên quan đến các loại sản phẩm nông nghiệp chính đang có xu hướng gia tăng. Cụ thể, trong ba thập kỷ qua, sản lượng ngũ cốc đã bị mất trung bình 69 triệu tấn mỗi năm, tương đương với sản lượng ngũ cốc của Pháp vào năm 2021. Đối với trái cây, rau quả và mía, mức thiệt hại trung bình hàng năm là 40 triệu tấn. Đối với rau quả, tổn thất tương đương với sản lượng rau quả của Nhật Bản và Việt Nam năm 2021.

Ngoài ra, ước tính thiệt hại đối với mặt hàng thịt, sản phẩm sữa và trứng trung bình đạt 16 triệu tấn mỗi năm, tương đương với sản lượng thịt, sữa, trứng của Mexico và Ấn Độ năm 2021.

Sự khác biệt về tác động của khí hậu theo khu vực

Báo cáo FAO đã chỉ ra sự khác biệt rõ rệt trong tác động của thiên tai đối với các khu vực và quốc gia khác nhau. Châu Á, mặc dù chịu tổn thất kinh tế nông nghiệp lớn nhất, nhưng tổn thất này chỉ chiếm 4% của giá trị gia tăng nông nghiệp. Trong khi đó, ở châu Phi, tổn thất tương đối lớn hơn, đạt gần 8% của giá trị gia tăng nông nghiệp. Sự khác biệt này còn tăng cao hơn khi so sánh các vùng khác nhau.

Mặc dù các nước thuộc các nhóm thu nhập khác nhau có mức thiệt hại khác nhau, các nước thu nhập thấp, đặc biệt là các quốc gia đảo quốc nhỏ (SIDS), thường chịu tỷ lệ thiệt hại cao nhất đối với giá trị gia tăng nông nghiệp.

Tác động đồng thời của các yếu tố thảm họa

Báo cáo của FAO nhấn mạnh rằng các sự kiện thiên tai đang trở nên ngày càng phổ biến và nghiêm trọng hơn. Trong vòng 20 năm qua, số lượng sự kiện thiên tai đã tăng từ 100 mỗi năm vào những năm 1970 lên tới khoảng 400 mỗi năm trên toàn thế giới. Điều đáng lo ngại không chỉ là tần suất tăng, mà cường độ và sự phức tạp của các sự kiện thiên tai cũng ngày càng gia tăng. Báo cáo cũng dự đoán rằng tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn trong tương lai, do các thảm họa liên quan đến biến đổi khí hậu dự kiến ​​sẽ làm gia tăng lỗ hổng xã hội và môi trường sống hiện có.

Báo cáo chỉ ra rằng khi các mối nguy hiểm này xuất hiện, chúng có thể gây ra tác động không chỉ trong một lĩnh vực, mà còn lan tỏa qua nhiều hệ thống và lĩnh vực khác nhau. Các yếu tố gây ra rủi ro thiên tai bao gồm biến đổi khí hậu, tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng, sự gia tăng dân số, tình trạng khẩn cấp về sức khỏe do đại dịch gây ra, các hoạt động quản lý đất đai không bền vững, xung đột vũ trang và suy thoái môi trường.

Mức độ mất mát và thiệt hại gây ra bởi các thảm họa này phụ thuộc vào tốc độ và quy mô không gian mà mà chúng xảy ra, cũng như tình trạng sẵn có của các hệ thống và yếu tố dễ bị tổn thương. Trong những tình huống cực đoan, các thảm họa này có thể dẫn đến di dời và di cư của dân cư nông thôn, gây ra tác động tiêu cực đến hệ thống sản xuất nông sản thực phẩm và gây tăng tình trạng mất an ninh lương thực.

Tăng cường khả năng phục hồi của hệ thống nông nghiệp thực phẩm

Những người nông dân, đặc biệt là những hộ sản xuất nhỏ phụ thuộc vào thời tiết, là nhóm dễ bị tổn thương nhất trong hệ thống nông nghiệp thực phẩm và thường phải chịu thiệt hại nặng nề do các thảm họa thiên tai. Để hỗ trợ họ, việc thực hiện các biện pháp thực hành tốt để giảm thiểu rủi ro từ thiên tai ở cấp trang trại có thể giúp họ tránh được thiệt hại và tăng cường khả năng phục hồi. Đầu tư vào các biện pháp thực hành tốt này có thể mang lại hiệu quả cao hơn trung bình 2,2 lần so với các biện pháp trước đây.

Việc can thiệp một cách tích cực và kịp thời để đối phó với các mối nguy hiểm được dự báo được xem là cực kỳ quan trọng để xây dựng khả năng phục hồi bằng cách ngăn chặn và giảm thiểu rủi ro trong lĩnh vực nông nghiệp. Một số ví dụ đã chứng minh rằng việc đầu tư vào các biện pháp phòng chống và ứng phó thảm họa có tỷ lệ lợi ích/chi phí thuận lợi cao. Báo cáo cho thấy, mỗi đô la đầu tư vào các biện pháp phòng ngừa có thể mang lại lợi ích lên tới 7 đô la và giảm thiểu thiệt hại cho các hộ gia đình nông thôn.

Cuối cùng, báo cáo đề xuất ba hướng tiếp cận chính, bao gồm việc cải thiện dữ liệu và thông tin về tác động của thiên tai đối với tất cả các lĩnh vực nông nghiệp; phát triển và tích hợp các phương pháp tiếp cận giảm thiểu rủi ro từ nhiều loại thiên tai vào các chính sách và chương trình ở mọi cấp; và tăng cường đầu tư vào khả năng phục hồi nhằm tối ưu hóa việc giảm thiểu rủi ro từ thiên tai trong nông nghiệp và cải thiện sản xuất nông nghiệp cũng như sinh kế.

Nguồn: Mard.gov.vn

Chuyên mục
Hạt ( tiêu, điều, mắc ca ... ) XUẤT NHẬP KHẨU

Ngành điều lo ngại vì chất lượng sản phẩm giảm.

Vào ngày 10/10/2023, ngành sản xuất điều ở Việt Nam đang đứng trước vấn đề quan trọng về chất lượng sản phẩm. Liên tiếp, người tiêu dùng đã đưa ra phản ánh về mối lo ngại về chất lượng sản phẩm, đặc biệt là vấn đề về sự dư lượng trong sản phẩm. Hiệp hội Điều Việt Nam đã phải phát đi thông báo, nhằm bảo vệ danh tiếng của ngành chế biến điều Việt Nam.

Dieu-vietVào chiều ngày 10/10/2023, Hiệp hội Điều Việt Nam (Vinacas) đã tổ chức cuộc họp báo để chia sẻ tình hình hoạt động của ngành trong thời gian gần đây cũng như định hướng trong những tháng còn lại của năm. Ban lãnh đạo Vinacas lưu ý rằng sau hai năm đầy khó khăn vì ảnh hưởng của dịch bệnh và tình hình chiến sự toàn cầu, ngành điều đã bắt đầu phục hồi, đặc biệt là trong những tháng gần đây, lượng đơn đặt hàng cũng tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, từ tháng 6 năm 2023, nhiều lô hàng điều xuất khẩu đến Mỹ và châu Âu liên tục gặp vấn đề với tình trạng nhiễm bệnh do côn trùng.

Theo Vinacas, tình trạng cảnh báo đã ngày càng trở nên nghiêm trọng trong quý 3/2023 do việc tăng ca vào ban đêm làm cho việc khử trùng không đảm bảo thời gian cách ly, từ đó tạo ra dư lượng thuốc trừ sâu trong sản phẩm điều sau chế biến. 

Ông Bạch Khánh Nhựt, Phó chủ tịch thường trực Vinacas, cũng đề cập đến việc các doanh nghiệp nhập khẩu đã lưu trữ hàng trong kho với thời gian dài, dẫn đến sự suy giảm chất lượng của sản phẩm điều chế biến.

Chủ tịch Vinacas, ông Phạm Văn Công, không giấu giếm rằng việc duy trì chất lượng sản phẩm là yếu tố quyết định sự tồn tại của ngành điều Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh từ các nước châu Phi đang ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Ông cũng nhấn mạnh rằng hiện tại không còn thời điểm để che giấu vấn đề chất lượng nữa, mà cần có những giải pháp mạnh mẽ hơn để giải quyết tình trạng này. Vinacas đã đề xuất điều chỉnh giảm chỉ tiêu xuất khẩu điều năm 2023 xuống còn 3,05 tỷ USD, kỳ vọng rằng điều này sẽ giúp cải thiện tình hình chất lượng sản phẩm của ngành trong thời gian tới.

Nguồn: VINACAS

Chuyên mục
Chứng nhận nông nghiệp NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG

Nên ưu tiên nông nghiệp sinh học hay hóa chất cho tương lai bền vững?

Việc cung cấp đủ thực phẩm bền vững cho hơn 8 tỷ dân trên toàn cầu được công nhận là một trong những thách thức lớn nhất của thời đại. Nông nghiệp sinh học, một hệ thống các phương pháp dựa trên cân bằng sinh thái và đa dạng, ngày càng được coi là một giải pháp quan trọng cho vấn đề khổng lồ này.

Roger Tripathi, CEO và người sáng lập của Liên kết Toàn cầu Nông nghiệp Sinh học, giải thích rằng nông nghiệp sinh học đơn giản là việc sử dụng các nguyên liệu và công nghệ xanh, đáp ứng và chịu trách nhiệm với môi trường.

“Theo ông, để giảm thiểu rủi ro cho sức khỏe của người nông dân và người tiêu dùng, cần phải tận dụng tốt nhất từ cả nông nghiệp truyền thống và tự nhiên, kết hợp và tích hợp chúng một cách thông minh và hiệu quả.”

Ông nhấn mạnh, loại mô hình nông nghiệp này đòi hỏi ba điều: cân bằng các khía cạnh vật lý, hóa học và sinh học của đất; phục hồi cân bằng khoáng chất và vi sinh vật trong đất; và tăng mức carbon trong đất.

Liên kết Toàn cầu Nông nghiệp Sinh học cung cấp chuyên môn địa phương cho ngành nông nghiệp về cách đạt được điều này. Mạng lưới toàn cầu của họ cung cấp nhiều dịch vụ bao gồm hỗ trợ về quỹ, các vấn đề quy định, nguồn nhân lực, kế hoạch tiếp thị và kiểm toán, cùng với sự kiện Hội nghị Thế giới BioAgTech diễn ra hàng năm.

Nedward gần đây đã bắt kịp với AgFunderNews để thảo luận về sự quan trọng của Nông nghiệp Sinh học và hướng đi tiếp theo của nó.

mat-tuong-phan

AFN: Những thách thức chính của nền nông nghiệp trên thế giới là gì? Tại sao nông nghiệp sinh học là cần thiết để giải quyết những thách thức này?

RT: Mặc dù việc cung cấp thực phẩm chất lượng cho mọi người với tài nguyên ngày càng hạn chế là thách thức lớn nhất, bền vững và hiệu quả rõ ràng là hai nhu cầu và quan tâm chung quanh thế giới đối với nông nghiệp.

Một điều quan trọng cần tập trung là quay trở lại nguyên tắc của các phương pháp nông nghiệp bản địa trong khi kết hợp công nghệ hiện đại. Nông nghiệp sinh học kết hợp với công nghệ nông nghiệp là câu trả lời cho nhiều vấn đề về sức khỏe đất đai và cây trồng.

Sức khỏe đất là cốt lõi của mọi thứ trong nông nghiệp. Cần phải xem xét lại khái niệm về mẹ thiên nhiên để tôn trọng tài nguyên tự nhiên và sử dụng chúng một cách có hiệu quả trong khi sử dụng chính xác và công nghệ nông nghiệp để đạt được hiệu suất tối đa. Nông nghiệp ngày nay phải bền vững, hiệu quả, tập trung vào người nông dân, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và thân thiện với môi trường. Nông nghiệp sinh học, nông nghiệp chính xác, công nghệ nông nghiệp và công nghệ sinh học cần phải đi đôi với nhau.

Sáng tạo tạo nên cột sống của bất kỳ doanh nghiệp nào; nông nghiệp cũng không phải là ngoại lệ. Việc sử dụng trí tuệ nhân tạo, công nghệ nano, GPS cho nông nghiệp, robot, IoT, v.v. có khả năng cải tổ nông nghiệp. Đó là lý do tại sao Hội nghị Thế giới BioAgTech hiện đã phát triển thành Hội nghị Thế giới BioAgTech.

Tuy nhiên, sáng tạo không phải lúc nào cũng có nghĩa là tạo ra điều gì đó mà trước đây chưa từng tồn tại; đó cũng là việc áp dụng các khái niệm hoặc công nghệ hiện có để giải quyết vấn đề chưa được giải quyết. Không thể phủ nhận rằng chúng ta cần nhiều sáng kiến ​​hơn nữa để đạt được mục tiêu bền vững và an ninh lương thực, nhưng chúng ta cũng cần ý tưởng để sử dụng các sáng kiến ​​hiện có theo cách mới hoặc tốt hơn. Tôi gọi đó là ‘Các Phương pháp Nông nghiệp Bền vững Tích hợp’.

AFN: Các công ty đang phản ứng như thế nào với nhu cầu sáng tạo nông nghiệp sinh học?

RT: Các công ty trong lĩnh vực nông nghiệp hiểu rằng đến lúc phải chuyển sang nông nghiệp sinh học. Ngày càng nhiều công ty nông nghiệp quan tâm đến ngành này và đang tìm cách đóng góp.

Các công ty lớn như Syngenta, Corteva, UPL, Bayer và nhiều công ty khác liên tục đầu tư vào nông nghiệp sinh học. Do đó, chúng tôi cũng thấy việc sáp nhập và mua lại lớn đang diễn ra trên khắp lĩnh vực, điều này rõ ràng cho thấy sự quan tâm ngày càng tăng của các công ty trong việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm và công nghệ độc đáo bởi các công ty khởi nghiệp. Tại GBL, chúng tôi hiểu rằng làm việc đơn lẻ không phải là lợi ích tốt nhất của nông nghiệp, do đó tại Hội nghị BAW, chúng tôi tập hợp tất cả các nhà chơi nông nghiệp sinh học nghiêm túc trên một nền tảng với ý định xây dựng một cộng đồng nông nghiệp sinh học mạnh mẽ để hỗ trợ lẫn nhau và làm cho Nông nghiệp Sinh học phát triển.

cuoc-hop

AFN: Điều gì có thể trở thành ổ dịch cho sáng tạo nông nghiệp sinh học trong tương lai?

RT: Brazil là một người chơi chính trong nông nghiệp toàn cầu, khi đó là quốc gia dẫn đầu về xuất khẩu nhiều loại mùa vụ đến thế giới. Ưu điểm về địa lý và khí hậu, đa dạng sinh học phong phú, liên tục mở rộng, cộng với chính sách nông nghiệp thuận lợi của Brazil làm cho Brazil trở thành nơi phù hợp để đổi mới cách mạng trong nông nghiệp sinh học.

Nhiều năm nay tôi đã tin rằng Brazil sẽ sớm trở thành người dẫn đầu thế giới về nông nghiệp sinh học, lâu trước khi nó tăng lên đến độ cao như ngày nay. Đây chính xác là lý do tại sao chúng tôi chọn địa điểm cho Hội nghị BAW lần trước. Châu Mỹ Latinh đã được công nhận là có một trong những hệ thống nông nghiệp và thực phẩm tốt nhất thế giới. Brazil đã dẫn đầu trong việc hợp nhất và đã chứng kiến một số lượng lớn sáp nhập trong vài năm qua. Ngày càng nhiều công ty nông nghiệp sinh học đang gia nhập thị trường nông nghiệp Brazil. Tất cả những yếu tố này cùng nhau đã làm nổi bật ngành công nghiệp Nông nghiệp Brazil trên bản đồ thế giới. Sự thành công của một Hội nghị BAW thực sự toàn cầu tại Brazil cũng đến từ việc Châu Mỹ Latinh với Brazil đang dẫn đầu.

AFN: Loại công nghệ và sáng kiến nào trong nông nghiệp sinh học mà bạn cảm thấy thú vị?

RT: Gần như mọi thứ đang diễn ra trong công nghệ và sáng kiến nông nghiệp sinh học đều rất thú vị. Thật tuyệt vời khi thấy sự áp dụng của các công nghệ tiên tiến như hiểu biết và tùy chỉnh sáng tạo với đất và vi sinh vật cây trồng, trí tuệ nhân tạo, GPS, robot và máy bay không người lái để làm cho nông nghiệp hiệu quả hơn. Sự hợp tác giữa công nghệ và nông nghiệp để đưa ra các công nghệ nông nghiệp mới và nông nghiệp chính xác để giải quyết những vấn đề cấp bách khiến tôi rất phấn khích.

Tôi cũng thích thấy sự hợp tác thông qua việc sáp nhập và mua lại đang làm mạnh mẽ ngành công nghiệp và cơ sở hạ tầng của chúng tôi, cho phép chúng tôi đưa sản phẩm nông nghiệp sinh học của mình lên sân khấu thế giới. Nông nghiệp tương lai sẽ liên quan đến việc thu được giá trị tối đa từ mỗi xu đầu tư trong khi tái tạo đất và môi trường của chúng ta, và những công nghệ này chỉ là bắt đầu.

Nguồn: Agfunder News