Vườn cam hữu cơ Năm Hạng tại Dĩ An, Bắc Tân Uyên, Bình Dương

Vườn cam hữu cơ Năm Hạng tại Dĩ An, Bắc Tân Uyên, Bình Dương
Nhờ điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu mát mẻ, chuối Laba phát triển mạnh mẽ trên đất Đà Lạt và trở thành đặc sản của mảnh đất nơi đây với vị thơm ngon, dẻo đặc trưng. Chuối Laba được thích nghi trồng ở khá nhiều vùng khác nhưng vẫn không có nơi nào có được năng suất và chất lượng như ở Đà Lạt – Lâm Đồng.
Chiến dịch Thanh Long Búp Sen Ruột Đỏ được FoodMap liên kết với vườn thanh long của bác Vượng ở La Gi – vùng đất trồng thanh long rất nổi tiếng ở Bình Thuận. Vườn được bác trồng rất tâm huyết theo phương pháp hữu cơ, không phun thuốc kích thích tăng trưởng, không vuốt tai và để trái chín tự nhiên. Thanh Long Búp Sen Ruột Đỏ có thành phần dinh dưỡng được đánh giá là gấp đôi thanh long ruột trắng, cùng với đặc điểm nổi bật của mình nó đã tạo nên nét đặc sắc riêng có giá trị xuất khẩu rất lớn cho tỉnh Bình Thuận. Thanh long ruột đỏ còn được sử dụng như một loại trái cây tự nhiên có tác dụng làm đẹp da, giảm béo, dưỡng tóc, giúp chống được nhiều bệnh tật.
Nhìn vườn ổi lê giống Đài Loan cây cao vượt quá đầu người, tán lá xanh sum suê đan xen những quả ổi to sáng, bóng mượt được bao bọc trong những túi xốp trắng, ít ai nghĩ rằng vườn ổi này mới hơn một năm tuổi. Đó là mô hình ổi được sản xuất theo hướng hữu cơ của anh Võ Duy Tân ở thôn 9, xã Hòa Phú (TP. Buôn Ma Thuột).
Anh Tân cho biết, 200 cây ổi lê trồng xen với 200 cây bưởi da xanh (cây trồng chính) trên diện tích gần 5.000 m2 từ tháng 6-2018, năm nay anh đã thu được 1 tấn quả. Chất lượng của quả ổi đã được người tiêu dùng biết đến và đặt mua trước tại vườn (giá bán 20.000 đồng/kg) và hiện tại không đủ sản lượng để phân phối cho khách hàng.
Được biết, để được vườn ổi như ngày hôm nay, anh Tân đã không ngại khó nhọc, lặn lội đến tận tỉnh Bến Tre để tìm giống ổi lê Đài Loan, học hỏi cách trồng và chăm sóc ở nhiều vườn cây ăn quả của các tỉnh miền Tây Nam Bộ; đồng thời nghiên cứu áp dụng từ khâu trồng đến tưới tiêu, phân bón, tạo hình, bao quả và quản lý sâu bệnh… theo hướng hữu cơ.
![]() |
Anh Võ Duy Tân trong vườn ổi hữu cơ của gia đình. |
Vườn ổi được anh bón bằng loại phân bón ủ từ đậu nành với chế phẩm EM thứ cấp nhằm cung cấp lượng đạm hữu cơ, giúp đất tơi xốp, tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển mạnh, lá xanh dày bóng mượt, cho năng suất cao. Ngoài ra, anh còn tận dụng nguồn phân hữu cơ được ủ từ cây lục bình (còn gọi là bèo tây) thu gom ở hai bên bờ sông Sêrêpốk với chế phẩm men vi sinh Trichoderma để bón thúc cho cây. Loại phân này không những tốt cho cây mà còn dễ làm, thay cho phần lớn phân hóa học, giảm chi phí sản xuất.
Về quản lý sâu hại cho vườn cây, anh Tân đã sử dụng các sản phẩm thảo mộc như: băm nhỏ ớt, tỏi, gừng theo tỷ lệ cho phép sau đó thêm rượu vào hỗn hợp và để ngâm một thời gian rồi phun cho cây. Các loại dung dịch thảo mộc này chứa hàm lượng axit lớn tiêu diệt các loại côn trùng chích hút gây hại cho cây và quả ổi. Loại thuốc trừ sâu thảo mộc này có thể để tới vài tháng và sử dụng dần, khi phun không ảnh hưởng đến sức khỏe, không ô nhiễm môi trường.
Thời kỳ cây ra quả được 15 – 20 ngày thì anh Tân tiến hành bao quả bằng loại túi xốp chuyên dụng để hạn chế tối đa côn trùng gây hại trên quả, quả không bị bám bụi bẩn, không làm vỏ bị trầy xước khi thu hoạch, tạo mẫu mã quả sáng bóng, mượt mà và lớn nhanh, tăng năng suất. Đặc biệt, sản phẩm ổi lê Đài Loan được sản xuất theo hướng hữu cơ tại vườn của anh Tân ít ruột, thịt dày, giòn, vị ngọt đậm đà mà các vườn trồng ổi theo truyền thống không thể sánh bằng.
Anh Tân dự kiến sẽ tiếp tục sản xuất theo hướng an toàn chất lượng với 2,5 ha diện tích còn lại đang trồng các loại cây như bưởi da xanh, dừa xiêm, vải thiều, quýt đường, xoài… Vườn ổi lê Đài Loan là diện tích vừa trồng thử nghiệm hướng hữu cơ để làm cơ sở nhân rộng, vừa thực hiện mục tiêu “lấy ngắn nuôi dài” trong khi các loại cây trồng khác chưa cho thu hoạch.
Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ (NNHC) giai đoạn 2020 – 2030 được Chính phủ phê duyệt bắt nguồn từ thực tiễn, phương thức và định hướng chung của Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia và phát huy tiềm năng thế mạnh về NNHC của các vùng miền và địa phương, góp phần định vị và nâng cao thương hiệu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên bản đồ nông nghiệp thế giới; đưa Việt Nam trở thành quốc gia có trình độ sản xuất NNHC ngang bằng với các nước tiên tiến trên thế giới.
Theo đó, các đơn vị quản lý tại địa phương, các hiệp hội ngành hàng, người sản xuất và doanh nghiệp sẽ nắm được các quan điểm phát triển, các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Nhà nước về phát triển NNHC; triển khai xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của Ðề án phù hợp chức năng của đơn vị và điều kiện thực tế của từng địa phương.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), năm 2016 diện tích canh tác hữu cơ trên cả nước là hơn 53.000ha, hiện diện tích này đạt gần 238.000ha. Số lượng doanh nghiệp sản xuất hữu cơ là 97 doanh nghiệp, trong đó tham gia xuất khẩu có 60 doanh nghiệp với kim ngạch 335 triệu USD/năm.
Sản phẩm NNHC Việt Nam được tiêu thụ trong nước và hiện đã xuất khẩu đi 180 nước trên thế giới. Trong đó, Mỹ, châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Anh, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Italia… là những thị trường tiêu thụ nông sản hữu cơ lớn nhất trên thế giới.
Ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT cho hay, đầu ra các sản phẩm hữu cơ rất tốt, thậm chí các sản phẩm còn không đủ để cung ứng ra thị trường. Hiện Bộ đang thực hiện nhiều biện pháp để thúc đẩy Đề án phát triển NNHC. Mục tiêu đến năm 2025 là có 1,5 – 2% diện tích đất nông nghiệp đạt tiêu chuẩn hữu cơ, đến 2030 sẽ đạt từ 2,5 – 3% diện tích hữu cơ.
Thứ trưởng nhấn mạnh, việc quản lý sản xuất hữu cơ đóng vai trò rất quan trọng bởi nó đảm bảo các sản phẩm được gắn mác hữu cơ đều thực sự là sản phẩm của NNHC. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, kiểm tra giám sát các tổ chức chứng nhận và sản phẩm NNHC, từ cấp Bộ đến các địa phương. Bên cạnh đó là đào tạo tập huấn cho doanh nghiệp, người sản xuất, kinh doanh sản phẩm hữu cơ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sản xuất hữu cơ, tăng cường công tác đào tạo chuyên gia chuyên sâu về NNHC.
Nhiều tiềm năng
Chị Hoàng Thị Tâm ở Hoàng Hoa Thám (Hà Nội) chia sẻ: “Mấy năm gần đây, tôi luôn “đau đầu” về vấn đề lựa chọn thực phẩm sạch vì gia đình có cả người già và trẻ nhỏ rất “mẫn cảm” với thực phẩm. Từ khi có một số doanh nghiệp lớn giới thiệu sản phẩm thực phẩm hữu cơ (TPHC), tôi đã tìm mua và sử dụng thường xuyên để bảo đảm an toàn sức khỏe cho các thành viên trong gia đình”.
Theo chị Tâm, nhu cầu sử dụng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ đang ngày càng cao. Tuy nhiên, để sản xuất được TPHC lại đòi hỏi rất khắt khe, từ đất, nước, không khí, vùng cách ly, quy trình sản xuất… đều phải tuân thủ đúng quy định. Tuyệt đối không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học, nên sản lượng TPHC ở Việt Nam hiện cũng còn rất “khiêm tốn”.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), diện tích canh tác, nuôi trồng TPHC của nước ta mới đạt khoảng 76.000 ha, tập trung chủ yếu tại các tỉnh như Hà Nội, Hòa Bình, Hà Nam, Lâm Ðồng… Hiện mới chỉ có 30/63 tỉnh, thành phố triển khai sản xuất TPHC và theo hướng hữu cơ, với 59 cơ sở sản xuất.
TPHC hữu cơ (Organic Food) là vấn đề nhiều người rất quan tâm và được thảo luận từ lâu. Mươi năm trước, loại thực phẩm này chưa phổ biến và thường chỉ được bán ở các cửa hàng Health Food. Khoảng ba năm trở lại đây thì TPHC đã dần quen với người tiêu dùng. Không chỉ Việt Nam, mà trên thế giới ngành sản xuất nông nghiệp hữu cơ cũng còn rất nhiều tiềm năng phát triển.
Giá trị xuất khẩu cao
Đánh giá về TPHC, đại diện Bộ Công thương cho rằng, xu thế tiêu dùng thực phẩm ngày càng đòi hỏi cao hơn về chất lượng, nên sự tồn tại và phát triển những thực phẩm “cao cấp” hữu cơ sẽ là xu thế tất yếu. Thực tế, sản lượng TPHC của Việt Nam và thế giới còn chưa đáp ứng đủ nhu cầu thị trường. Sản xuất TPHC cũng đem lại lợi nhuận cao hơn cho người nông dân; yên tâm về đầu ra bởi hoàn toàn có thể bán trong nước và phục vụ nhu cầu xuất khẩu…
Nước ta có rất nhiều lợi thế trong sản xuất TPHC. Một số ý kiến cho rằng, nếu sản xuất TPHC bài bản theo chuỗi, có sự tham gia của các doanh nghiệp lớn thì có thể đem lại giá trị xuất khẩu hàng tỷ USD mỗi năm.
Hằng năm, trong các chương trình xúc tiến thương mại của Việt Nam, các sản phẩm nông nghiệp nói chung và TPHC nói riêng của nước ta khi giới thiệu ở các nước cũng được đánh giá rất cao. Theo ông Hà Phúc Mịch, Chủ tịch Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ (NNHC) Việt Nam, nhu cầu của Việt Nam và cả thế giới đối với các sản phẩm NNHC là rất lớn. Tuy nhiên, để phát triển ngành NNHC, phải có hệ thống văn bản pháp lý canh tác hữu cơ và phải gắn với quá trình thực thi pháp luật. Hệ thống sản xuất phải phù hợp trình độ hiểu biết của người nông dân để họ có thể áp dụng được, đồng thời phải phù hợp tiêu chuẩn hữu cơ tại các nước mà Việt Nam muốn xuất khẩu như Mỹ, các nước châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc… Như vậy mới có được hạn ngạch xuất khẩu cho sản phẩm NNHC của Việt Nam sang “trời tây”.
Nói về khó khăn khi tiếp cận thị trường TPHC, ông Trần Mạnh Chiến, Giám đốc chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch Bác Tôm tại Hà Nội cho rằng, hiện nay, chi phí để các tổ chức nước ngoài cấp chứng nhận sản phẩm hữu cơ rất cao, khoảng 5.000 USD/năm đối với 1 ha. Nếu áp dụng các tiêu chuẩn của các tổ chức cấp chứng nhận nước ngoài vào Việt Nam thì giá thành sản phẩm NNHC sẽ tăng lên quá cao, trong khi áp dụng các tiêu chuẩn của các tổ chức tại Việt Nam thì chưa được công nhận.
Theo Hiệp hội NNHC Việt Nam, để “chớp” thời cơ đối với ngành sản xuất NNHC, Việt Nam cần sớm hoàn thiện hệ thống chính sách tiêu chuẩn, quy chuẩn sản xuất, chế biến, chứng nhận chất lượng, thanh tra, giám sát liên quan NNHC; giúp người tiêu dùng an tâm khi sử dụng các sản phẩm đã có chứng nhận và đạt tiêu chuẩn. Ðặc biệt, các chứng nhận của Việt Nam cũng phải theo tiêu chuẩn của thế giới và được các nước thừa nhận thì mới có giá trị đối với các đơn vị được cấp chứng nhận. Nếu không, dù được chứng nhận thì sản phẩm NNHC của nông dân và doanh nghiệp làm ra cũng không thể xuất khẩu được.
Thực tế cho thấy, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành các văn bản hướng dẫn sản xuất, chế biến, ghi nhãn và tiếp thị thực phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu cơ, áp dụng cho sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa hình thành hệ thống các tổ chức chứng nhận sự phù hợp cho nông sản hữu cơ, cũng như chưa có sự thừa nhận của các tổ chức quốc tế.
Cà phê ngon là cà phê được pha từ bột cà phê rang xay nguyên chất, không pha lẫn bột đậu nành, bột bắp hay hóa chất tạo mùi, tạo màu. Để chọn mua được cà phê ngon, nguyên chất, bạn nên tìm hiểu kĩ trước khi mua nhé!
– Cùng một khối lượng, cà phê rang lên sẽ nở lớn nên có thể tích lớn hơn các loại hạt ngũ cốc.
– Bột cà phê rang xay nguyên chất nhẹ, tơi xốp, mịn đều, khi thả vào nước thì nổi lên trên.
– Bột cà phê nguyên chất ít ngậm nước, không pha hóa chất nên giòn, không vón cục.
– Khi rang đến nhiệt độ và thời gian thích hợp, bột cà phê có màu nâu đậm, khác với màu đen đậm của bột bắp rang hay màu nâu đậm ngả vàng của bột đậu nành rang.
– Mùi nguyên thủy của cà phê rang rất dễ chịu, thơm và đặc trưng, không giống mùi gắt của bột đậu nành hay hương liệu hóa học.
– Khi pha nước sôi vào, vì hầu như không chứa tinh bột nên bột cà phê nguyên chất không dẻo, dính và xẹp xuống như loại pha tạp bột đậu nành, bột bắp.
Ngược lại, do khi rang các hạt cà phê nở ra, tạo các khoang không khí, khi gặp nước sôi các khoang này nở lớn, làm bột cà phê nở phồng lên, sủi bọt nhiều.
– Cà phê nguyên chất sau khi pha có màu nâu từ cánh gián đến nâu đậm, khi cho đá vào sẽ có màu nâu hổ phách, khi để ra ánh nắng thì có màu nâu sáng lung linh, rất hấp dẫn thị giác.
– Vì thành phần hầu như không có tinh bột nên ly cà phê ngon, nguyên chất có độ sánh rất ít, hầu như không đáng kể.
– Cà phê ngon là cà phê có vị đắng thanh xen lẫn vị chua nhẹ nhàng, đó mới chính là vị của cà phê nguyên chất.
– Khi đánh lên với đường, cà phê nguyên chất sẽ tạo nên một ít bọt màu nâu sáng nhưng không nhiều, kích thước khá đồng đều, đục và dày, mau xẹp xuống chứ không đầy cả ly, óng ánh màu cầu vồng, mỏng tanh và lâu tan như cà phê có pha các chất tạo bọt.
Cà phê nguyên chất tuy có những đặc trưng riêng nhưng cũng không dễ nhận ra. Cách tốt nhất để chọn cà phê ngon, nguyên chất chính là tự mình trải nghiệm. Chúc bạn tận hưởng những ly cà phê ngon cùng thời gian thư giãn tuyệt vời!
Hay còn gọi là cà phê chè. là loại cafe hạt hơi dài, vị của Arabica hơi chua xen lẫn với vị đắng nhẹ, màu nước nâu nhạt. Được trồng ở độ cao trên 600m, thích hợp với khí hậu mát mẻ, chỉ trồng chủ yếu ở Brazin, chiếm 2/3 lượng cà phê hiện nay trên thế giới. Quả cà phê Arabica được lên men sau thu hoạch (ngâm nước cho nở…) sau đó rửa sạch rồi sấy khô.
Các nhà khoa học Mỹ cho biết uống cà phê Cà phê Arabica nguyên chất điều độ có thể giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường.
Còn gọi là cà phê Vối, có hàm lượng caffeine từ 2 – 4 %. Hạt nhỏ hơn Arabica, được sấy trực tiếp không cần lên men nên hương vị của cà phê Robusta luôn được đánh giá là kém cạnh hơn so với Arabica với chất vị đậm, chát và đắng hơn và độ chua cao hơn. Được trồng ở độ cao dưới 600m, khí hậu nhiệt đới vì vậy nó có mặt ở nhiều nước hơn (Việt Nam chỉ trồng loại này), tổng lượng chiếm 1/3 lượng cà phê tiêu thụ toàn thế giới.
Còn gọi là Bi những hạt cà phê có hình dáng tròn trịa như hạt đậu, mùi hương thơm và vị đắng mạnh mẽ. Đặc biệt, lượng cafein trong hạt cà phê Culi cao hơn gấp nhiều lần so với những hạt cà phê Robusta, Arabica.
Cafe đột biến Culi tương đối hiếm, chiếm tỷ lệ khoảng 2-4% trong mùa vụ. Sau khi thu hoạch và sơ chế, hạt cafe Culi được tách khỏi phần vụ thu hoạch và bán riêng với mức giá cao hơn.
Hạt cà phê moka tương đối nhỏ, cứng, có hình dạng không theo quy luật và có màu từ vàng lục tới màu vàng nhạt. Có vị hơi chua một cách thanh thoát và khi uống thì mang một hương vị rất đặc biệt. Trong các họ cà phê thì giống cà phê Moka này khó trồng nhất, đòi hỏi công chăm sóc rất kỹ, dể bị sâu bệnh, cần có điều kiện môi trường lẫn kỹ thuận chăm bón đặc thù, năng xuất lại rất ít. Cây cà phê Moka chỉ có thể trồng và sinh trưởng ở độ cao trên 1500m vì vậy cà phê Moka ở Việt Nam có giá bán đắt hơn những loại cà phê khác.
Với một số thông tin về các loại cafe thì bạn chắc hẳn sẽ tìm được một loại cafe mà mình thích và ưng ý nhất để cùng thưởng thức. Thông tin thêm là hiện Foodmap có cung cấp các loại hạt cafe nguyên chất cũng như các loại cafe hòa tan có tỉ lệ hạt cafe cao khiến bạn say mê đó.
Trên thế giới có hai loại cà phê phổ biến nhất bao gồm cà phê Arabica (hay còn gọi là cà phê chè) và cà phê Robusta (hay còn gọi là cà phê vối). Và rất tự hào bởi Việt Nam là nước đứng đầu thế giới về sản lượng xuất khẩu cà phê Robusta. Còn cà phê Arabica thường được trồng tại các nước như Brazil, Colombia, Mexico, Peru, Ấn Độ… trong đó nước đạt sản lượng lớn nhất là Brazil.
Hai dòng cà phê này đều đã có mặt từ lâu tại khắp các châu lục và được pha thành đồ uống với nhiều biến thể khác nhau. Nhiều nơi còn có những công thức pha trộn giữa hai loại cà phê để tạo ra những hương vị độc đáo. Hãy cùng so sánh cà phê Arabica và Robusta loại nào ngon hơn và hương vị của chúng khác nhau như thế nào, pha trộn ra sao để tạo ra những ly cà phê hảo hạng?
Cà phê Arabica được gọi là cà phê chè, là loại cà phê phổ biến nhất trên thế giới, chiếm hơn 60% tổng sản lượng cà phê hàng năm của thế giới. Arabica gồm hai dòng thông dụng nhất là Moka và Catimor, trong đó người ta uống nhiều Moka hơn là Catimor.
Đặc điểm sinh học của Arabica là ưa vùng khí hậu ôn đới với nhiệt độ từ 15-25 độ C và có độ cao trên 1000m, độ ẩm vừa phải. Chính vì thế mà Việt Nam không phải là vùng khí hậu có địa hình thích hợp để phát triển cà phê Arabica. Chúng thường được trồng ở khu vực các nước Nam Mỹ là nhiều nhất.
Quả cà phê Arabica có hình dáng bầu dục, mỗi quả có hai nhân hạt cũng mang hình bầu dục, hạt to hơn hạt của cà phê Robusta. Một số quả bị biến dạng thì chỉ có một nhân hạt duy nhất.
Cà phê Robusta được gọi là cà phê vối, là loại cà phê nhiều thứ hai thế giới, đứng sau cà phê Arabica. Tại Việt Nam có tới 90% sản lượng cà phê đến từ cà phê Robusta, giúp Việt Nam dẫn đầu thị trường cà phê xuất khẩu trên thế giới.
Robusta phù hợp trồng trọt tại những vùng có khí hậu nhiệt đới có mức nhiệt trên 25 độ C và độ cao dưới 1000m. Vì thế nên ở Việt Nam, cà phê Robusta được trồng nhiều nhất tại khu vực Tây Nguyên như các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Kon Tum,…
Quả cà phê Robusta có hình tròn, mỗi nhân quả gồm hai hạt cà phê cũng hình tròn màu nâu vàng sáng.
Khi so sánh cà phê Arabica và Robusta loại nào ngon hơn, người ta sẽ cảm nhận và đánh giá dựa trên hương vị của mỗi loại. Cà phê Arabica có vị đắng dịu, hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết bởi hàm lượng caffeine trong hạt Arabica chỉ từ 1-2%. Cà phê Robusta có vị đắng nhẫn, một chút chua chua và hương thơm nồng hơn Arabica bởi hàm lượng caffeine trong hạt Robusta chiếm từ 2-4%.
Chính vì thế mà nhiều người ưa thích hương vị của Arabica hơn là Robusta vì sự tinh khiết nhẹ nhàng vừa phải của nó. Tuy nhiên, ở một số đất nước lại yêu vị chua và vị đắng nồng nàn của cà phê Robusta hơn. Ngày nay, để tạo nên những hương vị tuyệt hảo cho ly cà phê, người ta thường pha trộn cả hai loại cà phê trên với nhau theo những tỷ lệ nhất định. Ví dụ như cà phê Espresso của nước Ý thường sử dụng tỷ lệ Arabica:Robusta theo công thức 9:1 để lấy chút thanh chua của Robusta hòa quyện nâng tầm hương vị cho Arabica nguyên chất.
Cà phê thường được chế biến bằng máy rang xay cà phê theo công nghệ hiện đại, tạo ra những mẻ bột cà phê rang xay nguyên chất. Những thương hiệu đã khai thác được hương vị thơm ngon của cà phê Arabica và Robusta tại Việt Nam bao gồm: Trung Nguyên coffee, Nestle, Vina cà phê…. Những chuỗi cửa hàng cà phê nổi tiếng ở Việt Nam gồm có Highlands coffee, Starbucks, Cà phê Cộng, Nguyen Chat Coffee & Tea….
Để mà so sánh cà phê Arabica và Robusta loại nào ngon hơn thì rất khó lựa chọn. Mỗi dòng cà phê lại mang một hương vị đặc trưng không lẫn được với loại còn lại. Và vì thế nó phù hợp với khẩu vị và đánh giá của từng người dùng. Việc tận dụng những ưu điểm trong hương vị của mỗi loại kết hợp lại với nhau sẽ tạo nên những ly cà phê thơm ngon đúng điệu và để lại dấu ấn khó phai trong lòng mỗi thực khách.
Sau khi thu hoạch, cà phê thường được chế biến bằng hai phương pháp đó là: chế biến khô và chế biến ướt. Phương pháp chế biến ướt thường được áp dụng cho những loại cà phê có giá trị kinh tế cao như Arabica. Cà phê Robusta thì thường được chế biến khô. Tuy nhiên, bạn có thể áp dụng phương pháp chế biến ướt cho cà phê Robusta. Vậy cách chế biến ướt cà phê Robusta được thực hiện như thế nào?
Phương pháp chế biến ướt tạo ra sản phẩm cà phê có chất lượng cao hơn do được lên men bằng chính enzim của hạt hoặc sự tham gia của hệ enzim vi sinh vật. Tuy nhiên trong quá trình chế biến ướt, bạn cần phải liên tục theo dõi để tránh việc hình thành những hương vị không mong muốn do lên men quá mức. Nếu bạn muốn chế biến cà phê Robusta theo phương pháp này, hãy cùng tham khảo và thực hiện theo các bước như sau:
► Bước 1 – Phân loại cà phê: Trong quá trình thu hoạch, cà phê sẽ xuất hiện những quả đã khô do quá chín. Vậy nên sau khi thu hoạch, bạn sẽ phân loại để loại bỏ cà phê đã khô và chỉ lấy cà phê còn tươi. Bạn có thể phân loại bằng cách đổ cà phê vào bể nước, những hạt khô và lá rác sẽ nổi lên trên.
► Bước 2 – Loại bỏ vỏ: Chế biến ướt là phương pháp lên men hạt cà phê bằng chính enzim của chúng hoặc enzim từ vi sinh vật có lợi. Tuy nhiên lớp vỏ của cà phê tương đối dày và khó phân hủy nên khi chế biến ướt có thể phát sinh những vị lạ ngoài ý muốn. Vậy nên bạn cần đưa cà phê Robusta qua máy nghiền để tách bỏ vỏ.
► Bước 3 – Tiến hành lên men hạt: Lên men hạt là quá trình loại bỏ chất nhầy. Chất nhầy này thường có trong phần thịt cà phê, tức việc loại bỏ chất nhầy cũng đồng nghĩa với việc loại bỏ phần thịt hạt cà phê. Tuy nhiên nếu loại bỏ bằng cách chà sát thì sẽ rất mất thời gian đồng thời sẽ làm mất đi nhiều thành phần giúp phân hủy Pectin. Vậy nên bạn cần lên men theo trình tự như sau:
– Đầu tiên cho hạt cà phê vào nước để ngâm với tỉ lệ 1:1.
– Tùy thuộc vào nhiệt độ, nồng độ của các enzim quá trình lên men kéo dài từ 24 – 36 độ.
– Khi hạt không còn nhầy thay vào đó là hơi nhám, bạn sẽ vớt cà phê ra và rửa sạch lại một lần với nước.
► Bước 4: Làm khô hạt cà phê sao cho độ ẩm trong hạt đạt từ 12 – 13%.
Trên đây là cách chế biến ướt cà phê Robusta mà bạn có thể tham khảo và áp dụng. Nếu còn những vấn đề thắc mắc cần được hỗ trợ tư vấn thêm thông tin về cách chế biến cũng như rang xay cà phê Robusta, bạn hãy liên hệ với công ty rang xay cà phê chuyên nghiệp R&A để được phục vụ nhanh chóng. Xin cảm ơn!